NTNV 10 – Hạc Vàng và Căn Nhà Nhỏ

Nguyễn Văn Thà

https://i0.wp.com/www.vnnphoto.com/forum_vnnphoto/gallery/9-030412194858.jpeg

*Amore somnoque gravata

et vestibus versicoloribus:

Trỉu nặng tình ái cùng ngủ nghê,

và áo xống thì đủ màu đủ sắc .

                         (?)1

** Người nô lệ da vàng ngủ quên

 trong căn nhà nhỏ;

đèn thắp thì mờ.

Trịnh Công Sơn

 

Quê hương ai mà chẳng muốn trở về. Cổ kim thơ bàng bạc những khói sóng mây trắng, những rau dền mắm ruốc. Ôi, những thứ đó, xa rồi mới nhớ! Mà tại sao lại nhớ? Trời Tây nầy cũng mây bạc, khói sầu; và quán kẻ Nam nào chẳng rau mắm đầy dư? Vậy mà lòng vẫn cứ nhớ. Ấy là nói cái lòng nhớ quê hương yên ả bình thường, nhưng một khi mảnh cố thổ ấy xác xơ, tàn lụi, cái lòng nhớ ấy lại pha thêm nỗi ngậm ngùi. Càng xác xơ lại càng ngậm ngùi. Có kẻ đâm ra giận phường bạc ác, hăm he xé xác; có kẻ chạy quanh kiếm tiền để về; nhưng cũng có kẻ chỉ biết chảy nước mắt, xót ruột.

Và giống như tình yêu đôi lứa, tình đất nước làm cho khách đa tình sầu vô kể. Khốn cho ai ôm một lượt hai thứ ấy vào lòng. Cái anh chàng Trực phải sầu ngất ngư, vì cả hai thứ ấy có lúc đã hè nhau đổ vào hồn mỏng chàng muôn vàn đấu hào quang. Hai mươi năm rồi mà vẫn chưa tha. Ða tình đa lụy. Cho nên mới “Nhị thập niên xa mã, Hạc hoàng nguyệt khổ căn: Hai mươi năm xe ngựa,  Trăng vàng hạc còn đau.”

 

Chùa Lá Dừa nằm trên một ngọn núi cao khoảng ngàn mét trông ra biển lớn. Thực ra chùa tên Lá Dừa nhưng chùa xây bằng gạch; có cả chùa trên lẫn chùa dưới. Chùa có cái nét kiến trúc đơn sơ, màu chìm, vốn là nét đặc trưng của nền kiến trúc Việt Nam. Chùa không làm cho khách vản cảnh phải mệt mắt, chẳng phồn tạp sắc màu làm ta phải phân tâm chia trí, tâm viên ý mã loanh quanh. Ở đấy đã nằm sẵn Con Người. Ở đấy đã bàng bạc Chân Như. Người vào đấy mà tắm gội nguồn sinh. Ta chỉ vào đấy để bắt lại sự  sống. Chùa đã có những vị cao tăng trụ trì, mải tới giờ phương danh còn đọng lại. Ðặc biệt vị sáng lập chùa có vẻ lập dị, vì nhìn bức vẽ truyền thần của ngài, thấy ngài không khoác tăng y mà lại mặc áo dài Việt Nam, cài tả nhậm và bới tóc củ tó; sắc mặt diễu diễu và cả những nếp nhăn cũng mềm mại, chứ không quả đoán, nghiêm nghị, rối rắm gãy nếp như những vị kế nhiệm; nhất là những vị đời nay. Chùa là một thắng cảnh nức tiếng gần xa, nhất là từ khi chùa có được một tượng Phật nằm dài hơn ba chục mét. Ngoài ra ở đấy còn có văn bia cổ, và rất nhiều hoành phi, câu đối. Thứ thì khắc vào cột chùa gỗ lim, thứ thì ẩn hiện trong những bức hoành tráng sơn son, thếp vàng, hoặc do những mảnh đồ gốm bể ghép lại.

Kỳ ấy vào tháng Ba, tháng Tư, miền Nam nước Việt trời chuẩn bị vào mùa mưa, nên trời khô và bầu trời xanh vô chừng. Trung đội biệt kích của Trực, sau mấy tháng vất vả rừng sâu cao nguyên lại được về tiểu khu Bàu Tó nghỉ quân, và được điều lên đóng cạnh chùa. Không hẳn là nghỉ quân, vì trung đội còn phải trấn thủ vòng ngoài cho một đài ra đa đóng phía trên chùa. “Tôi được bên hải quân thông báo cho biết là các anh sẽ về nghỉ quân và nhờ các anh coi chừng vòng ngoài dàn ra đa. Tiện đây ban chúng tôi cũng nhờ các bạn theo dõi xem nhà chùa có kiếm cách tiếp tế cho tụi nó không. Tôi đã nắm được một số nguồn tin là cứ hằng tháng nhà chùa cấp cho tụi nó ba tạ gạo. Phải tìm cách triệt, dù đó là tự nguyện hay bị bắt buộc nộp để sống còn. Tôi cũng biết là đại tá tỉnh trưởng phải làm ngơ cho mấy thầy. Vì sợ mấy thầy. Ðánh đấm dấm dớ như vậy đó, thiệt nản hết sức! Chẳng có gì đáng ngại đâu, trung úy! Chỉ có mấy thằng du kích lèn quèn, nên các bạn vẫn có thể xả hơi được… ” – Ðại úy Trung, bạn Trực, trưởng ban Hai tiểu khu, cựu  hiệu trưởng một trường trung học Bồ Ðề, cho biết như thế.

Trực khi không triết lý lan man:

– Thì cũng tại cái óc dân mình nô lệ đã quen nên mới có cơ sự như thế! Thói kính trọng quá đáng các vị tu hành làm tê liệt đi cái lý trí độc lập vốn dĩ là dụng cụ số một để xây đắp một nền văn minh đúng nghĩa… Ở Việt Nam chưa ai dám nói: Chúa đã chết, Phật đã đổ. Thoạt đầu, và ngày nay còn một số người ở trời Tây vẫn còn dè bĩu câu nói sấm sét kiểu đó của Friedrich Nietzche, nhưng đa số cũng dần dần hiểu đó chẳng qua là một câu nói nhằm thức tỉnh lý trí con người ra khỏi cơn mê muội mà đủ loại thẩm quyền phủ trùm lên bao thế hệ. Người dân mình còn bị những thứ uy quyền đó đè nặng, mà không hay, có khi còn tán trợ nữa là đằng khác.

Trung nhập giòng một cách tự nhiên:

– Trái lại tôi thấy người Tây phương họ đã thức tỉnh, đã nhận ra được vị trí của họ trong xã hội, tuy rằng đôi trường hợp dẫn đến quá khích. Ðiều quan trọng là bắt đầu lấy lại cái tự do căn bản ấy, đó là sự suy nghĩ độc lập, cái đã. Rồi từ từ các luồng suy nghĩ khác nhau sinh ra bởi lối suy nghĩ độc lập sẽ điều chỉnh lấy nhau… Những điều chỉnh ấy diễn ra trong một thời gian cụ thể, trong những môi trường cụ thể, bởi những con người cụ thể…  Nếu có cái nhìn rộng lớn, cuộc chiến hiện tại là hậu quả của việc người Tây phương đã xử dụng vụng về cái lý trí độc lập ấy… cho nên họ lại rơi vào một thế lực khống chế khác, có khi còn tàn bạo hơn những thế lực hiện diện trước, trong thời của Nietzche. Và những người lãnh đạo đầu óc nô lệ của nước mình cứ tối mặt đâm đầu vào bất kể.

Sai lầm mới là người. Phải đau đớn thôi! Có người gọi đó là cái bi tráng của kiếp người, có người gọi đó là vô duyên cắc cớ. Nhưng tựu trung có lẽ món quà tặng tuyệt vời con người có được chính là cái khả năng suy nghĩ độc lập ấy.

– Tôi thấy hình như anh muốn nói đến biện chứng pháp, mà lại có pha chút vị Thiền, ít nhất là loại Thiền nhập môn mà tôi đọc trong cuốn Vào Thiền của Thích Ðại Chiếu!

– Cuốn đó (và các cuốn sách sau này) của ông là một loại “sách gia dụng” kiểu Sách Dạy Nấu Chay của bà Triệu Thị Chơi vậy thôi! Thôi cũng được đi, ít nhất ở phần đầu với cái phần thiền trong mỗi giây phút! Nhưng khi bắt đầu bàn tới những địa hạt tương đối thâm sâu, thì tác giả lại bắt đầu dùng một lô từ ngữ Phật học chữ Hán khó hiểu, rồi trộn thêm một mớ Pali, Sankrit phiên âm ngang dọc. Tư tưởng thì rối rắm, lối viết của những người chắp vá những mảng văn mượn của tác giả nước ngoài, mà lại dịch không trơn tru, vì tác giả không nắm được ngôn ngữ của văn bản, và cũng không nắm vững kiến thức về vấn đề mình đang khai thác… Dân quê mùa nghèo khổ chẳng ai quan tâm loại tư tưởng kiểu đó, nhưng cái lớp làng nhàng chữ nghĩa trung lưu lại hay thích, thích rồi mê loạn. Cái lớp này mới là đáng sợ. Bởi họ cũng lại là giai cấp “thầy”, mà lớp quần chúng dốt nát lại hay khúm núm, nể trọng họ; đại họa một phần từ đó mà ra…

Ấy là chưa kể các bản dịch kinh Phật dịch rất tồi, lại đầy dẫy chữ Hán, rất nhiều trường hợp không cần thiết; chính tôi đây mỗi khi đọc kinh Phật lại phải ôm từ điển mà tra, phải phân câu lại mà đọc. Huống gì dân không đi học; họ cứ thế mà tụng; tụng mà chẳng hiểu gì, hoặc hiểu lộn xộn. Cứ tụng riết loại kinh bản như thế, trí óc họ dần dần mê muội tê liệt, thành một loại âm binh cho các tay giảo hoạt như Thích Ðại Chiếu, hoặc bọn trí thức rỡm điều khiển.

Và, ở Ta cũng như ở Tây, bọn trí thức nửa mùa đó học Thiền có khi như theo một cái mốt thời thượng, và cũng có khi vì cần để lấp đầy một khoảng trống họ thiếu, họ cần. Ðã thế Thích Ðại Chiếu, khi bí, xoay xở tạo ra một lối trình bày tư tưởng u u minh minh về những lý thuyết của các đấng u u minh minh. Vì u hiển, kinh hãi vốn là nguồn mạch của sùng kính, nên không lạ gì nhiều kẻ theo ông ta. Nhưng cái điều tai hại cho dân tộc mình là khi ông mang cái kiến thức dở sống dở chín ra mà làm chuyện quốc gia đại sự… và biết đâu sau này lại chẳng le te dạy khôn thế giới với mớ kiến thức bát nháo đó.

Trực cười nụ:

– Ngoài kiến thức bát nháo như anh nói, tôi còn nghe nói Thích Ðại Chiếu đã phá cái xuất thế tục chi giới , một giới quan trọng làm nên tăng sĩ; nó làm cho bá tánh kính trọng các thầy, nhờ đó các thầy có một vị thế mà dạy dỗ, hô hào. Nếu phá giới thì thầy cháy, thầy như con số không, thế mà thầy Ðại Chiếu vẫn cứ phây phây là vì sao?

– Tình báo họ nắm được tin tức cụ thể, cả tên tuổi của người tình của thầy Ðại Chiếu, những chuyến đi đêm của thầy, nhưng chính phủ cũng chẳng làm được gì, vì ông ta là một tay giảo hoạt, mồm mép, và vì thiện nam tín nữ đã quá mê muội rồi! Chính phủ khó xử, phải e dè, kẻo lại bị mang tiếng là bôi nhọ, đàn áp Phật giáo như những lần trước…

Trực thở dài:

– Thế mà trong nước ông ta vẫn được các Phật tử, và đặc biệt được sinh viên học sinh kính trọng như anh nói thì đã đành, ngoài nước người ta còn tôn xưng Thích Ðại Chiếu là chiến sĩ đấu tranh cho hoà bình.

– Trực biết đấy: Thì cũng vì ở Tây Phương cái lớp trí thức làng nhàng kể trên có nhiều. Cứ xem cái chuyện ông ta cứ đòi hoà bình, cứ đòi hoà hợp hoà giải dân tộc với cái Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, và người Tây đang hùa theo cũng đủ biết. Cái tổ chức này, như có ông nhà báo đã phân tích: “Ngay một người với kiến thức bình thường cũng biết là từ nhân sự, phương tiện, và tổ chức nhất nhất đều do Cộng sản Hà Nội sắp đặt. Và hàng ngày ai cũng thấy rõ mỗi ngày hàng ngàn tấn khí giới cùng với hàng ngàn lính Bắc Việt theo đường mòn HCM xuôi Nam không phải để đi chơi.”

Rồi nữa: Ông ta gắn cho Cộng sản cái những tính chất như hoà hợp, hoà giải, là những tính chất Cộng sản không thể có. Làm như thế chẳng khác gì ta cho “Trí nhớ thì màu xanh3” hay “Vua César là một số nguyên tố” vậy. Cho nên ông kêu gọi hoà hợp hoà giải có nghĩa là chỉ có miền Nam hoà hợp hoà giải một mình, là ngưng chống lại Cộng sản, để cho Cộng sản làm gì thì làm. Mà Cộng sản là ai, là như thế nào, chẳng lẽ ông ta lại không biết? Hay ông ta lại là người không tưởng? Tìm kiếm một Niết bàn cho dân tộc bằng đường lối Cộng sản, và không muốn cho người miền Nam nắm bắt lấy cuộc đời mình từng giây từng phút như ông kêu mời? Một vua Trần Nhân Tôn, thiền sư thứ thiệt, định hàng quân Nguyên cho dân khỏi khổ, thì một Trần Hưng Ðạo rất tỉnh thức, đã đạt- đạo Ðời: “Bệ hạ nói câu ấy thì thật là nhân đức, nhưng mà Tông Miếu, Xã Tắc16 thì sao?” Nếu không thì nước mình đã trở thành như nước Tây Tạng từ khuya rồi!

Rồi để cho cái màn phản chiến phản quốc của mình có trọng lượng, ông lại đem ra cái thuyết vô nhị mang tính siêu hình, hình nhi thượng, để cổ võ chuyện đạo đức hình nhi hạ như tha thứ, hoà hợp, chín bỏ làm mười, kiểu I can not take sides chống lại tên hiếp dâm, cũng không ủng hộ bé gái 12 tuổi bị hiếp và sau đó bị giết chết, như trong bài thơ My True Self  của Thích Nhất Lang4.

Cái thuyết vô nhị ởm ờ, với cái lối minh hoạ phi luân, amoral, theo kiểu đó của ông ta, nếu có đúng tuyệt đối đi nữa, thuyết đó sẽ mang tính phổ quát, và nó chỉ có trong thế giới Lý Tưởng; còn Con Người nó còn bận rộn, nó còn phải vật lộn với cái hiện sinh cụ thể của nó tại thế này, nó đang “thiền”, nó đang xoay xở điều chỉnh, và nó phải hành động, và hành động như thế nào là tùy nó ý thức cuộc đời cụ thể ra sao. Nó có cái nhìn về cuộc đời như chính Thiền Lão thiền sư : “Ðản tri kim nhật nguyệt. Thùy thức cựu Xuân Thu? – Sống ngày này biết ngày này. Còn Xuân Thu trước ai hay làm gì ? “ Không nên đưa cái tri thức cuộc đời xưa cũ để giải quyết những vấn đề hôm nay, trong giây phút hiện tồn. Cái ý đó mà Thiền Lão đã thưa với vua Lý Nhân Tông, cả ngàn năm sau, Krishnamurti (mà nhóm trí thức Phật giáo thân Thích Ðại Chiếu rất ưa chuộng) , nói đi nói lại trong mấy chục cuốn sách của ông.

Tôi biết chắc là con người hành thiền thứ thiệt đó của miền Nam phải take sides, họ phải chém, phải bắn lại kẻ sát nhân, trước khi có một nơi an toàn để mà nghe chuyện Thiền, để mà hành thiền. Ðể cho nhân loại có giờ mà góp nhặt cát đá .

– Rồi thầy Ðại Chiếu cũng bàn đến chuyện bất bạo động nữa đó anh Trung!

– Cái bất bạo động của Thích Ðại Chiếu cũng là một hình thức bạo động. Tôi còn nhớ cũng chính Krishnamurti trong một cuộc hội thoại về bạo động ở San Diego College; sau khi đề cập về bạo-động-dễ-thấy, ông đã nói về một loại bạo động khác: “Nhưng làm sao giải thoát khỏi loại bạo động ở chổ cố gắng để trở nên một vai vế nào đó; loại bạo động tu tập kỹ luật theo một mẫu mực; cố gắng trở thành một kẻ nào đó; chịu nhẫn nhục, hay hành hạ chính mình, tàn nhẫn với chính mình, để trở thành người bất bạo động. Làm thế nào để cho tâm trí được giải phóng khỏi những dạng bạo động như thế? 2

– Thiệt lạ, miền Nam có nhiều vị bằng này bằng nọ, nhất là mấy vị tu sĩ Phật giáo, cũng như Công giáo, mà chẳng thấy ai phân tích, tranh luận những chuyện  sinh tử như vậy…

Trung bĩu môi:

– Biết đâu, mấy bố hoặc lười chảy thây, hoặc tuy có bằng cấp, nhưng cũng chỉ làng nhàng thôi, nên cứ để cho mấy ngọn bút giảo hoạt cứ đàng hoàng dọn cho dân mình những món ăn tinh thần hổ lốn. Bao lâu dân tộc mình chưa có một tầng lớp trí thức nhân văn chính quy, siêng sắn, có đầu óc phân tích, sẵn sàng đối diện với nguỵ trá, thì dân tộc mình khó mà ngóc đầu lên được. Cứ như tình trạng trí  thức văn hoá ngày hôm nay, thì dân tộc mình cũng chỉ sẽ làm nô lệ thôi, dù dưới hình thức khác. Cái anh Trịnh Công Sơn nói thế mà linh: Người nô lệ da vàng Ngủ quên trong căn nhà nhỏ. Căn nhà nhỏ của trí tuệ…

– Anh nói, buồn quá!

– Với cái nền văn hoá như thế, chắc chắn đất nước mình sẽ phải chịu nhiều cơn dông bão khốn nạn!

Trực vung tay:

– Cái văn hoá của người Phật tử mình, ngoài chuyện như anh phân tích, nó còn có mang tính chất bắt chước mù quáng. Một loại văn hoá nô lệ. Ví dụ chuyện treo cờ Phật giáo. Cờ quạt là chuyện rập khuôn Tây Phương: Người Tây họ gán cho lá cờ một bản thể thiêng liêng, cho nên mới có chuyện họ chào cờ, hôn cờ, đốt cờ… ; là một chuyện tới nay các hiền giả Tây phương họ cho là chuyện vớ vẩn, absurde. Từ trước Phật giáo nào có cờ! Mãi tới đại hội Phật giáo thế giới năm 1950 ở Columbo, Tích Lan, các vị đại biểu Phật giáo cố kiếm  cho  các giáo hội Phật giáo trên thế giới một lá cờ chung, như một trong ba sự kiện quan trọng mà đại hội đã quyết định, nhằm tạo ra một sự thống nhất cho các môn phái Phật giáo trên thế giới, (dù rằng thống nhất có nghĩa là cơ cấu; giáo hội mang tính cơ cấu cũng là một sản phẩm Tây phương; và cơ cấu là bước đầu xuống dốc cho bất cứ nguồn mạch tâm linh sâu thẳm nào.) Nhưng dẫu sao đi nữa các vị đại biểu còn biết dùng lá cờ Phật giáo như một dấu chỉ thống nhất, và cũng là một hình thức trình bày một số điểm trong giáo lý nhà Phật5. Bản thể và biểu ý là hai chuyện hoàn toàn khác nhau. Chính vì gán cho lá cờ một bản thể theo quan niệm tào lao của Tây phương, nên mới sinh ra chuyện bất bình, đấu tranh, hại dân hại nước. Phật giáo là một đạo phá chấp, tại sao họ lại tự mâu thuẫn, mà chấp đến như thế? Mà chấp vào một vấn đề phi Phật giáo! Văn hoá nô lệ là chỗ đó. Nô lệ lề thói suy nghĩ Tây Phương. Tôi nghĩ một  ngôi chùa uy nghi là chùa không cờ quạt gì cả. Như ngôi chùa mà thửa còn bé mẹ hay đưa tôi đi lễ Phật.

– Nghe anh Trực nói làm tôi nhớ chuyện cụ Phan Thanh Giản: Lúc tàu chở phái đoàn của cụ ghé vào một hải cảng trên đuờng về nước, theo yêu cầu mấy ông Tây trắng Tây đen, cụ đã đưa chiếc khăn gói trầu ra làm quốc kỳ, và cho họ chào mệt nghỉ, và cụ cười ha hả.

Trực vẫn say sưa:

– Ngay cả chuyện tự thiêu vì đạo pháp, hay tệ hơn nữa mượn cớ đạo pháp để giải quyết những vấn đề cá nhân dung tục, cũng là một biểu chứng của thói nô lệ văn hoá, cóp nhặt từ Tàu, hay nói đúng ra từ Phật giáo Tàu. (Chẳng khác gì Hồ Chí Minh bợ nguyên con chính sách đấu tố của Trung Cộng.) Vì có bằng cớ cho ta biết là Ðức Phật ngài cấm chuyện tự thiêu như trong kinh Na-tiên-tỳ-keo kinh do bồ tát Long Thọ, tổ sư truyền chánh pháp của Phật tổ, soạn, mà tôi có đọc, qua bản dịch của Warren9.

– Chà chuyện gay cấn chớ chẳng chơi! Phật nói gì trong kinh ấy, anh Trực?

– Vì đây là chuyện nhức nhối, nên tôi nhớ nguyên văn là: “Hỡi các tì keo, chớ có để ai tự hủy mình, và bất cứ  ai tự hủy mình, hãy xử kẻ đó theo luật định.”

– Còn Phật giáo Tàu đó chủ trương ra sao chuyện tự sát, tự thiêu?

– Trong kinh Diệu Pháp Liên Hoa Kinh12, dĩ nhiên là một kinh riêng của Phật giáo Bắc tông Tàu, có kể đến bồ tát Dược Vương nguyện xả thân để chữa bệnh cho bá tánh, và: “Ngài khoác áo có đính châu báu, tẩm dầu có hương thơm, và một khi đã nhiếp tâm đến mức đại định, ngài đốt thân xác mình. Ðám sáng chiếu rọi đến các thế giới vốn nhiều như cát sông Hằng. Và các vị Phật trong các thế giới đó, ngay lập tức, ca ngợi ngài Dược Vương.” Theo giòng lịch sử, cũng đã có một số trường hợp các thầy tăng Tàu hy sinh thân xác mình như một biểu lộ của lòng sùng mộ đối với Ðức Phật hay chư tổ, hoặc để phản kháng sự đàn áp Phật giáo. Thỉnh thoảng cũng có những trường hợp các thầy chỉ cắt cánh tay, hoặc cắt ngón tay, ví dụ, trường hợp nhị tổ Thiền tông Huệ Khả đã cắt cánh tay để biểu lộ tấm lòng tha thiết cầu đạo với sơ tổ Bồ đề Ðạt ma. Những hành động như thế, cộng với việc vua Ðường Hiến Tông cho rước cốt Phật về đặt trong bảo tháp trong hoàng cung để thờ, và một số lạm  dụng khác của nhà chùa, đã khiến Hàn Dũ10, nhà Nho, nhà luận chiến số một của Trung Hoa thời đó, đã dâng biểu can gián vua và bài xích Phật giáo…

Trung tiếp lời:

– Ngoài ra, anh Trực ạ, tôi nghĩ văn của Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, như các Kinh Thư cổ khác của các tôn giáo khác trên thế giới, là một loại văn đầy huyễn thoại apocalyptique, mang ý nghĩa tượng trưng rất cao; nó mở ra nhiều  kiểu giải thích khác nhau, nhiều khi mâu thuẫn nhau, tuỳ kiến thức, tính khí cụ thể của  người chú giải, và sẽ dẫn đến những áp dụng tương ứng. Phật giáo của mình lại sao y chánh bản lối giải thích huyễn tượng, và ứng dụng lới giải thích đó của Tàu. Chết người là chổ đó. Người ta đốt mình cũng đốt… Nô lệ là chỗ đó.  – Và Trung lắc đầu  – Rầu thiệt là rầu!

 

Tiếng súng lạch tạch dưới núi. Có tiếng đại bác dội về.  Lòng Trực còn man mác những lời phân tích của bạn anh. Chùa và núi yên ắng như một cõi đâu. Cái yên ắng vô duyên giữa mùa chinh chiến, nhưng đôi lúc, cũng ấm lòng chi lạ. Mùi nhang thoang thoảng trong trăng. Lại còn cả tiếng suối. Tất cả đều mềm, đều mài mại thủa thanh bình nào đó. Cho tôi thoáng cảm mùi nhang Cung đàn xa vắng một lần rồi thôi11 , câu thơ rơi rụng Trực lượm được giữa Trường Sơn máu lửa. “Gã thi nhân nước Việt ngoài ấy tội nghiệp đến như vậy sao! Mà do đâu?”  Và Trực ngủ chẳng được. Anh lững thững đi xuống chùa dưới. Khi đến gần, anh thấy một cô gái áo lụa vàng, hoặc giả là lụa ngà nhuộm ánh trăng, đang thơ thẩn trong sân trước, thỉnh thoảng lại cúi xuống ngửi hoa bụi này, vơ vẩn bụi kia.

– Hoa dạ lý đêm nay thơm thanh hơn đêm qua.

– Cô là ni cô?

– Em ở dưới làng lên đây tính vào chùa đọc thơ cổ đêm trăng, nhưng hương hoa chưa thả em ra.

– Trời đất!

– Anh nói sao?

– Không có chi; tôi chỉ cảm ơn Trời Phật.

– Nam mô A di đà Phật!

Và nàng bật cười ngọc vỡ, làm những con hạc vàng trên tà áo lụa vỗ cánh chực bay. Trực ngu ngơ:

– Hèn chi cái ông sư Phạm Thiên Thư, trang kinh ông cứ ăm ắp dáng Kiều thơm.

– Anh đọc vài câu nghe thử!

– Mười con hạc trắng về tha  Như Lai thường trụ trên tà áo xuân  Vai nghiêng suối tóc tơ huyền  Ðôi gò đào nở trên miền tuyết thơm.

– Thí chủ nghĩ sai rồi. Thầy Thiên Thư muốn nói về cái bất nhị…

Trực khi không gằn giọng Quan Công Mặt Ðỏ:

– Cô nói gì? Cô nói gì? Cái bọn ởm ờ cả lũ!

Nói xong Trực cúi đầu, như xấu hổ vì tức giận vô duyên.

Và khi ngước lên, chẳng còn thấy cô gái đâu.

Trực nghe có tiếng gì như tiếng chim đập cánh hốt hoảng mái tây chùa.

Tối hôm sau, trăng mười sáu, giữa khuya anh lại xuống chùa. Anh mừng rỡ thấy cô gái hôm qua đã đứng đó, dường như cô đang mằn mò đọc các câu đối nơi các cột chùa. Anh chưa dám hỏi han gì. Cũng thử đọc đỡ đôi câu cho đỡ ngượng. Câu nào cũng vương ít nhiều Thiền vị như:

 

Ðạo bản vô nhan sắc,

   Tân tiên nhật nhật khoa6:

Ðạo vốn không màu sắc,

Ngày phơi vẽ mới tươi.

 

Thân như điện ảnh hữu hoàn vô…

   Thịnh suy như lộ thảo đầu phô7.

Thân như bóng chớp, có thời không…

Kìa kìa ngọn cỏ giọt sương đông.

 

Nhưng cô Hoàng Hạc bỗng khựng lại:

– Trời đất, ai đã viết câu thơ thoáng nghe nhẹ như sợi trăng, mà lại bùng bùng sấm sét?  – Và cô đưa tay chỉ vào hai cột lim có khắc câu  “Ðê đầu vạn quyển quy hương lý   Quán diệp Phật kinh nguyệt cô tâm8” 

– Xin cắt nghĩa cho nghe!

– Ðể tôi thử dịch. Coi nào…Cúi đầu vạn… quyển về quê cũ. Xỏ lá… kinh Phật trăng cô tâm. Trời… đất!

-Vậy sao!? Vậy sao!? Nghe cô dịch Nôm xong, tôi mới nhận ra cái thâm ý của câu thơ, và hiểu ra tại sao ai đó lại cho khắc câu đối ngay chổ hai cột này. Vì từ trong hành lang nhìn ra, nếu để ý, cô sẽ thấy, hai câu thơ như nhìn thẳng ra bốn mảng phù điêu tròn to như cái nong có khắc chữ Phạn sơn son, gắn nơi bức tường chắn mảng núi. Lúc nãy tôi đã tò mò thử đọc, vì tôi khi học môn Phật học ở đại học Vạn Hạnh, có học chút ít tiếng Pali. Thử đọc, nhưng tôi chẳng hiểu gì. Tuy nhiên khi nhìn kỹ bốn bức đại tự chữ Pali đó, tôi thấy lối bố trí chữ mài mại hình bốn vị sư đang chăm chú đọc sách, mỗi vị quay về mỗi hướng khác nhau. Và cô xem: bức tường sát ngay mảng núi, nên giây gì như giây bìm bìm đang rủ xuống, như đang xỏ lá qua những lời kinh Phật nguyên ngữ Pali. Xỏ lá kinh Phật, hay kinh Phật xỏ lá, nếu chỉ nhích một chút vị trí của từ ngữ? Ai đó thật thâm, thật táo bạo!

– Thì táo bạo cũng giống như truyện thầy tăng xưa chẻ tượng Phật chụm bếp là cùng… Người đời xưa tâm trí cao minh.

– Còn người đời nay?

– Người đời nay chủm chọe ghê hồn.

– Tại sao lại chủm choẹ ghê hồn?

– Vì có biết bao thằng cuội thời đại đang xé nát vầng trăng? Vầng trăng sắp vỡ đến nơi.

– Cuội  nào? Cuội  nào? – Trực thét lên như những lần xung trận Trường Sơn.

Hạc vàng sợ quá, lại bay.

 

Tượng Phật nằm trên một triền đồi thoai thoải, gần chùa trên. Vành tai tượng to đến độ, người lớn có thể nằm lọt vào đó được. Ðể có được một bức tượng vĩ đại như thế trên núi cao ngàn mét, các thiện nam tín nữ cúng tiền đã đành, họ còn tình nguyện vác từng bao xi măng, gánh từng thúng cát, bó sắt lên núi cao. Cát họ gánh nhiều đến nỗi, sau khi đúc tượng xong, còn dư cả một đống lớn tựa ngọn đồi, cạnh tượng Phật. Tấm lòng mộ đạo của họ quả là bao la. Ngoài cái vĩ đại của tượng, người ta còn thấy cái tài hoa của điêu khắc gia nào đó, qua thần thái của tượng: dáng nằm an bình, đôi mắt trầm lắng, đôi tai thỏng tự tại, và đôi môi viên mãn nụ cười, bàn tay mềm mại bao dung. Về giá trị nghệ thuật, tượng không thua bất cứ tượng Phật danh tiếng nào trên thế giới mà Trực đã có viếng trong các cuộc du lịch hoặc khảo cứu, trong hai thập niên ở nước ngoài.

 

Hai mươi năm sau. Sợ về, nhưng cũng phải về, vì anh phải đi công tác lo chuyện hồi hương cho dân tị nạn Việt Nam bị trả từ Hồng Kông, với các nhân viên tị nạn Liên Hiệp Quốc khác. Rồi Trực cũng kiếm cách xin nghỉ được một tuần về thăm nhà, thăm chùa. Thăm làng xóm, lòng chỉ thêm ngậm ngùi. Và cũng phải đi thăm chùa một chuyến. Dù biết đi chỉ thêm đau.

Trực lựa ngày rằm13. Cảnh vẫn còn như cũ. Nhưng chùa lại quét vôi xanh đỏ loè loẹt khó coi.

Anh ở lại đêm. Trăng vẫn sáng như trăng cũ hai mươi năm. Bồi hồi khôn tả. Tưởng như phút linh cầu đang rạng. Anh cố đọc mấy câu thơ cổ cho đỡ bồn chồn.

– Ông là ai mà đêm hôm khuya khoắt?

– Tôi là người từ xa lên vãn cảnh chùa.

– Dễ chừng đã hai mươi năm – Vừa nói, người nữ cởi chiếc áo màu lam ra, thả xuống đất, phô áo lụa lung linh cổ nguyệt.

– Hoàng Hạc?

– Mỗi tháng cứ độ trăng rằm em vẫn mặc chiếc áo lụa cũ, lên đây nhớ anh… mà, anh ơi… em đã có con với anh!

– Cô nói sao!? Cô mơ hay tỉnh!?

– Sau này, em đã bị bọn phỉnh phờ, khốn nạn hiếp dâm, và đã có thai. Nhưng anh ơi, em đã yêu anh đêm đó, yêu những tiếng giận dữ dưới trăng, yêu Ðặng Dung vung kiếm nguyệt xưa. Anh giận dữ hay núi sông giận dữ? Ôm bào thai vô tội, ôm cả nghĩa non sông. Nhưng, anh Trực ơi, thằng nhỏ em sinh ra sao nó còi nó cọc, dù em cố gắng nuôi con bằng sữa lành, gạo tốt; đã thế học hành chẳng chịu, nó chỉ thích lông bông chơi trò bị gậy? Áo em may cho nó không chịu mặc mà cứ xé tươm, đòi áo giấy cho được mới chịu mặc, và nhất định cho đó là áo sang nhất. Chỉ có mấy con Miên, con Thổ khen là đẹp, vậy mà nó khoái lắm… Mấy đứa nhỏ láng giếng như con anh Ðài chị Loan, con anh Ðại chị Hàn, con ông bà Ba Tân Gia, ấy là chưa kể con ông Thái Lan cổ lổ xỉ, xưa con nhà nghèo hèn, bây giờ đứa nào cũng nên danh nên phận, giàu có hơn người. Nó không biết xấu hổ, mà còn cứ vênh váo khoe khoang. Sao nó lại như thế! Phải chăng cái ô trọc của kẻ hãm hiếp đã trấn át tất cả Trung, Trinh?

Rồi nàng úp mặt khóc:

– Anh ơi, sao anh đã bỏ em mà đi, tuyệt giòng nghĩa khí?

Có tiếng kẻng của đồn công an biên phòng dưới chân núi vang động, hoàng hạc lại vỗ cánh bay đi. Bay về hướng tượng Phật nằm.

Tối hôm sau, Trực lại lên chùa, nhưng chẳng thấy Hoàng Hạc đâu. Anh ngầy ngật lê bước về phía tượng Phật nằm. Chẳng biết tại sao. Nhưng anh vẫn còn đủ tỉnh táo để thấy tượng Phật người ta đã sơn phết loè loẹt; ai đó còn chấm cả một cái nút ruồi kiểu Marilyn Monroe17 vào bên má trái; rồi còn sơn đỏ móng chân, móng tay tượng; tượng Phật giống như – xin lỗi – một anh đồng tính luyến ái nằm trơ trẻn trong các bụi cây ở trong Central Park ở New York. Ban đêm mà còn như thế, ban ngày chắc còn thấy kinh hoàng hơn.

Trực cứ đi vòng vòng bức tượng như một gã thất tình. Cứ tức, cứ tiếc cho bức tượng mà anh đã từng khoe mỗi khi nói chuyện với các giáo sư của anh về nghệ thuật Phật giáo Việt Nam. Rồi anh bỗng thấy phía đằng lưng của tượng một cánh cửa nhỏ giấu sau một bụi cây che rậm. Anh dùng dao đa năng ngoáy đại vào ổ khóa. Cửa mở. Trong bụng tượng Phật thăm thẳm, anh thấy một vùng ánh sáng lờ mờ. Bấm đèn pin, rọi, anh thấy xác một cô gái trẻ da thịt muột mà, trần truồng treo tòng teng nơi một mấu sắt bê tông, người oằn chữ S. Sợi thừng thiệt lớn, và chắc như dây dừa Tam Quan. Trực vất vả kiếm cách và cuối cùng cũng hạ xác cô gái xuống được. Khi cầm sợi dây treo cổ, anh thấy lạ vì đây không phải là dây dừa bình thường, mà lạ một loại dây thừng bện lại bằng giấy, tuy mềm mà dai như da trâu thuộc. Anh lấy dao tỉa ra từng khúc, rồi vuốt ra từng tờ, và tò mò xem thử. Hoá ra đó là những tờ giấy mới có, cũ có, từ chuyện sấm ngôn soán đoạt thủa xưa, cho tới chuyện treo cờ treo quạt, tuyên ngôn, yêu sách đời nay; và tờ mới nhất, loại giấy đánh Fax mới toanh, kể lể trách rằng ai đã phụ ai. Và bây giờ Trực mới để ý thấy chiếc áo lụa vàng, có lẽ của người chết, bị ai quăng nằm trong một góc, sáng hiu hắt niềm riêng, làm anh nhớ câu thơ cũ: Quán diệp Phật kinh nguyệt cô tâm: Xỏ lá kinh Phật trăng cô tâm. Và anh lẩm bẩm: “Phải chăng người xưa nào đó có lúc giận quá, mất khôn? Mà giận điều gì? Hay đây là quỉ thi mời gọi điều chi?”

 

Oslo, Tết dương lịch 2002

 

(1) Câu văn La tinh không rõ của ai mà W. B. Yeats, nhà thơ, nhà văn Ái Nhĩ Lan, (1865 – 1939),  dùng trong truyện ngắn The Tables of Law: Những Tấm Bia Luật; truyện gợi hứng cho tôi viết truyện ngắn này.

(2) Krishnamurti… trích dịch từ cuốn Beyond Violence, nxb Victor Golanz LTD, London, 1983, trang 74.  / Jiddi Krishnamurti  (1895 -1986), sinh ra ở Ấn độ; được hai vị lãnh đạo phái Thông thiên học (Theosophical Society)  khám phá ở Ấn, và được nuôi dạy ở Anh bởi chính hai vị này, và hai vị đã tôn K. như Thầy của Thế giới (the World Teacher) ; vào tuổi thanh niên ông trải qua những kinh nghiệm thần bí làm biến đổi hẳn tâm tư ông; ly khai khỏi mọi tôn giáo, ý thức hệ, kể cả phái Thông thiên học; và chân cứng đá mềm với trách nhiệm cô đơn mà ông  tự đặt cho mình; là một minh sư, một triết gia, một nhà tư tưởng, một người bạn, hoặc là chẳng là gì cả như ông đã tự đánh giá mình, ông đã soi sáng cuộc đời hàng triệu người trên thế giới – trí thức, dân dã, già, trẻ. Ông đã mang lại ý nghĩa mới, nội dung mới cho đời họ bằng cách chỉ ra một lối sống vượt trên mọi tôn giáo cơ cấu. Ông cũng táo bạo đương đầu với  những vấn đề thời đại, và phân tích, một cách chính xác khoa học, sự vận hành của tâm trí con người. Khi ông tuyên bố rằng quan tâm duy nhất của ông là làm cho con người được tự do tuyệt đối, vô điều kiện, ấy là ông muốn tìm cách giải phóng con người thoát ra khỏi mọi dạng điều kiện hoá nằm sâu trong con người, và bó buộc, và làm khổ con người; đó là sự buồn phiền, sự sợ hãi, bạo lực, và sự ích kỷ. Ðể được như thế,  con người cần giải trừ những kiến thức  (freedom from the known)  mà mình tự, hoặc bị gắn vào bởi các loại tôn giáo, các ý thức hệ, các trào lưu tư tưởng, và nhìn thẳng, nhìn tươi mát vào cái hiện tồn của mình (what is) .  Các tác phẩm quan trọng, theo NVT: The first and last Freedom (Tự do đầu tiên và cuối cùng, Phạm Công Thiện dịch) , Commentaries on Living, ba tập (Bàn về Hiện sinh, Trúc thiên dịch) .

(3) Trí nhớ màu xanh… xin xem thí dụ của Rey trong mục Category mistake, The Cambridge Dictionary of Philosophy.

(4) I can not take sides: Ý này dựa vào bài thơ Please Call Me by My True Name (lộng dịch: Hãy  vạch mặt chỉ tên tôi. ) của Thích Nhất Hạnh. Ðại ý: Trong cặp tương phản: Tên hải tặc Thái Lan & đứa bé gái 12 tuổi bị hiếp và sau đó ném xuống biển, ông chỉ giận, chứ không chống lại tên hải tặc đó, và đồng thời ông cũng không đứng về phía cô gái bị nạn. Thái độ của ông cũng tương tự như thế với với cặp mâu thuẩn khác: ủy viên trung ương đảng & thành phần có nợ máu bị đi khổ sai cải tạo…

(5) Ba sự kiện quan trọng được quyết định trong đại hội: cờ Phật giáo, ngày Phật đản, Phật lịch.  / Lá cờ ngũ sắc  có ý tượng trưng cho ngũ căn: tín, tinh tấn, thiền định, chánh niệm, định huệ, và cũng tượng trưng cho ngũ lực tương ứng với ngũ căn; rồi cờ còn biểu trưng cho cái ý ‘ngũ châu nhân chủng’ ; và cũng biểu tượng cho cái ý thánh nhân cũng từ trong cõi Ta Bà, tạp thú ngũ cư  mà ra.

(6) Ðạo bản…Thơ Phạm Thường Chiếu/ Ðào Phương Bình, Nguyễn Ðức Vân  dịch.

(7) Thân như…Thơ Nguyễn Vạn Hạnh/ Ngô Tất Tố dịch.

(8) Quán diệp… và câu Nhị thập niên… thơ Mạt Tỉnh/  Nguyễn Văn Thà dịch.

(9) Tự thiêu : Xin xem cuốn Chinese Religions của Julia Ching, nxb MacMillan 1993, mục Buddhism and suicide : Phật giáo và vấn đề tự sát, trang 148;  có nêu đích danh trường hợp tự thiêu của Thích Quảng Ðức để minh hoạ.  Bà đã có những công trình lớn về Tôn giáo Trung Hoa, giáo sư môn Tôn giáo học ở các đại học tăm tiếng nhất trên thế giới. / Hỡi các tì  kheo… trích từ bản dịch kinh Milindapanha (Na tiên tì keo kinh)  trang 437,  bản dịch của Warren, trích từ tác phẩm Chinese Religions kể trên.

(10) Hàn Dũ: (768 – 823) , người đời Ðường, đậu tiến sĩ năm 25 tuổi, được phong tước Xương Lê bá, giữ các chức vụ phải sử dụ lý trí phân tích nhiều: giám sát ngự sử, giám sát sử quán tu soạn, hình bộ thị lang. Ngoài bài biểu kể trên, còn có bài Nguyên Ðạo, và Nguyên Tính rất sâu sắc, hùng hồn. Ðem thực học mà tu sửa cái học hư văn của người đương thời. Văn đơn giản, mạnh mẽ. Sau bài biểu can gián bài xích đạo Phật, bị giáng xuống chức thứ sử và bị đày ở Triều Châu (Quảng Ðông). Sau làm văn tế đuổi được sấu dữ trong vùng, được gọi trở về lại triều – (Theo Dương Quảng Hàm). Cuối đời theo đạo Phật (mà ông đã đả phá những lề thói kể trên) , nên có câu: Học đáo Xương Lê chung ngộ đạo… Học cỡ Xương lê cuối cùng thấy Ðạo.

(11) Cho tôi thoáng cảm… Thơ Hồ Dzếnh, làm sau mấy chục năm tan nát dưới chế độ Cộng sản miền Bắc.

(12) Kinh Diệu Pháp Liên Hoa: Một bổn kinh to tát trong đạo Phật, do ngài Cưu ma la Thập dịch từ bản chữ  Phạn ra chữ Hán khoảng năm 400 Tây lịch. Kinh này là bộ kinh căn bản của  tông phái Thiên thai và tông phái Pháp hoa, Bắc tông, (theo Phật học Từ Ðiển của Ðoàn Trung Còn) . Kinh này cũng như các kinh khác của Phật giáo Trung Hoa, xét về nguồn gốc và tác giả, trộm nghĩ vẫn còn là vấn đề cần cẩn trọng nghiên cứu, đánh giá lại. Lý do là, theo học giả Julia Ching, vì nhu cầu quá lớn về kinh của người Trung Hoa, đã sinh ra lắm kẻ tự xưng là đệ tử chính truyền của Thích ca; họ đã bịa bậy các loại kinh để cho có kinh mà bán cho người đi thỉnh, hiện tượng này Julia Ching gọi là sutra industry : chợ kinh ( Về chợ kinh xin xem Julia Ching, Chinese Religions, 1993, nxb the Macmillan Press LTD,  cuối tr. 129 – 130. / Về vấn đề văn bản của kinh Phật xin xem thêm Donald S. Lopez, Jr., 2000, nxb The story of Buddhism…,  nxb HarperSanFracisco, tr 67 – 72, và 109 – 117)

(14) Vầng trăng tròn: trăng viên mãn và các từ mài mại như thế, hay được  dùng trong thơ Thiền và trong đạo hiệu để chỉ sự chứng ngộ. Như trong câu:  Thúy trúc huỳnh hoa phi ngoại cảnh. Bạch vân minh nguyệt  lộ toàn chân. (Thiền Lão thiền sư, đời Lý).

(15) Sấm ngôn soán đoạt: Về nghi vấn lịch sử về chuyện sư Nguyễn Vạn Hạnh tự thả thơ rơi, rồi phao đó là lời sấm báo nhà Tiền Lê, với ông vua đang trị vì Lê Long Ðĩnh, đã đến thời mạt vận, trong âm mưu hạ Lê Long Ðĩnh và đưa Lý Công Uẩn, đệ tử nhà chùa của sư Nguyễn Vạn Hạnh lên làm vua, xin xem mục Nguyễn Vạn Hạnh trong bộ Thơ Văn Lý Trần, nhà xuất bản KHXH, Hà nội /  Riêng nghi vấn âm mưu diệt Lê Long Ðĩnh, xin xem bài “Bệnh Án của Ngọa Triều Hoàng Ðế” của BS Hồ Ðắc Duy, trong điện báo Chim Việt Cành Nam, địa chỉ http://www.phapviet.com/chimviet . Ðại ý: Vua Lê Long Ðĩnh tuy có giết anh chiếm ngôi (có một vị vua trước và một vua sau Lê Long Ðĩnh cũng làm như vậy) , nhưng vua Lê Long Ðĩnh là người biết chăm lo cho dân, cai trị giỏi, cho người qua Tàu xin Tứ thư, Ngũ Kinh và thỉnh kinh Phật Ðại Tạng, và là một vua đã đi chinh phạt 5 lần và lần chinh phạt cuối cùng là 2 tháng trước khi chết. Vậy những cái xấu xa mà xưa nay người ta gán cho vua Lê Long Ðĩnh là do đâu, và có đúng không, và cái chết của ông là do một âm mưu? Bài viết có giá trị vì tác giả đã trưng dẫn và đối chiếu nhiều sử liệu cổ. / Mấy trăm năm thanh bình với Phật giáo là quốc giáo dưới triều Lý cách đây đã ngàn năm vẫn là mẫu quốc gia lý tưởng cho một số trí thức Phật giáo trong cuộc chiến tranh Việt Nam và cả đến hôm nay, thế kỷ 21!

(16) Tông miếu: đền thờ tổ tiên, chỉ tổ tiên. Xã Tắc: Xã là thần mặt đất, và sản phẩm của thần Xã là thần Tắc (thần hạt), vậy Xã tắc chỉ Ðất nước.

(17) Marilyn Moroe: (1926 – 1960) nữ diễn viên điện ảnh của Mỹ, nổi tiếng với sắc đẹp sexy, tóc vàng, và cái nút ruồi duyên nằm dưới  phía trái môi dưới.

NTNV 9 – Người Thích Nghe Chuông

Nguyễn Văn Thà

https://c1.staticflickr.com/5/4078/4935314301_2496d36c2e_b.jpg

Khoảng tháng mười gió bấc bắt đầu thổi mang theo cái lạnh phương Bắc; thổi rền rỉ ngày đêm. Lá cỏ héo dần rồi tan nát. Gió đưa cát bụi len vào từng lỗ chân lông; người lúc nào cũng cảm thấy nhớp nháp, bức rức. Ðược cái những ngày như thế, chuông nhà thờ vang xa.

Khi mấy ổng chưa vào tôi chẳng để ý đến gió bấc cho lắm. Mùa gió nồm mát mẻ hay mùa bấc khô khốc vẫn hai ngày cắp sách đến trường, có cơm ăn no, có áo lành mặc. Nhưng rồi từ độ hai miền hết đánh nhau, gió bấc làm tôi phải chú ý đến nó nhiều hơn, vì cờ bay mạnh, bay nhiều, và cũng là lúc khởi đầu cho những năm tháng tơi tả. Người và gió bấc, cờ xí cùng vó ngựa, văn hoá với những luồng tư tưởng bóp miệng. Những người dân miền Bắc như những người từ cõi âm, bắt đầu xuất hiện trước lẻ tẻ, sau đó ào ạt vào Nam để rán kiếm cho mình một mảnh đất sống. Họ là những người ngàn đời đói đất; và vào cái thời cái gì cũng nhân dân làm chủ thì sự thèm khát đất đai lại càng mãnh liệt. Chẳng có gì quý hơn đất. Ðất nào cũng được miễn là có đất, dù chỉ tạm thời. Ðất rừng bạc màu chằng chịt cỏ tranh người trong làng tôi không ai thèm làm, cũng đã là quá tốt đối với họ. Nhưng chẳng dễ gì moi được miếng ăn từ những đám cỏ tranh lì lợm, rễ đan tầng tầng địa võng ấy. Dần dà mộng ước đất đai của họ bị cỏ tranh bóp nghẹt; thân xác héo quắt dưới nắng đỏ.

Chúa HCM độ ấy cũng đã theo gươm giáo vào ngự trị trong mọi nhà xứ  Ðàng Trong. Thực ra, đối với số đông, cái mặt của chúa như một lá bùa gớm ghiếc mà những thầy pháp, bà bóng của chúa cứ gióng phèng la, cứ hô âm binh đe dọa, nên cực bằng đả phải dán trong nhà, vì ai mà biết được lúc nào ma tha quỷ bắt.

Vậy mà có người đàn bà không thèm dán lá bùa ấy. Một người đàn bà Ðàng Ngoài.

 

Tôi đang đi kiếm con trâu lạc, tay cầm chiếc roi mới tự bện. Rừng rậm rạp và mênh mông xanh. Chẳng hi vọng gì kiếm được trâu, nhưng cứ phải tìm. Ði giữa lòng con suối cạn, lá vòm giáo đường, cát mịn mát in dấu chân chim lăm nhăm lẩn giữa những vết trườn mỏng manh của loài bò sát. Và, nơi đây, cõi đâu đâu uống lời im ắng; chim kêu chiều biền biệt vô ngôn. Bỗng có tiếng chuông nhà thờ đổ, vang vang giữa ngàn cây. Chuông đổ trước loa. Họ đã quên mở đài. (Bấy nay trời thôn dã rộn tiếng máu xương, chẳng mấy khi, như chiều nay, chuông đưa lòng về được một cõi không trâu.) Cảm ơn suối nhỏ vòm cây. Cảm ơi ai kẻ quên loa rộn chiều. Một nhánh tre quẹt ngang mặt cắt ngang câu thơ lạng quạng, làm tôi giật mình, nhìn lên. Bóng dáng một cô gái đang đi lại phía tôi, thong dong mềm mại. Cô mặc quần xanh bó Trung quốc và áo sơ mi trắng, bộ đồ kiểu cọ nhất của các chị em dân ngoài Bắc thời đó; còn tôi, tôi lại đang bận cái quần tà lỏn, hình như đủng hơi rách thì phải – tại chỉ nhợ hồi đó quá bở; ngượng quá lẽ, bèn chữa thẹn:

– Cô đi đâu đó?

– Dạ em đang nghe chuông – Câu hỏi trật bản lề của tôi nghe thiệt tội nghiệp so với câu trả lời đầy tiêu dao  làm tôi thảng thốt – Chuông chiều nơi đây nghe thật thích! Còn anh?

– Tôi đi kiếm trâu.

– Anh đi kiếm trâu hay đi kiếm tiếng chuông Trời đã gởi cho người thế từ lâu? Angelus Dómini nuntiávit Mariae et concépit de Spiritu Sancto… Et Vebum caro factum est et habitávit in nobis1 Mà trâu lạc lâu chưa anh?

– Hồi trưa đứng bóng.

– Tối đến nơi rồi, anh kiếm nhanh đi!

– Thôi, khỏi cần kiếm!

– Sao vậy?

– Vì đã có cô đây!

Tôi bắt đầu trổ mòi. Nhưng cô nàng vẫn cứ như không:

– Anh có biết không… ?

Và ánh mắt cô đóng cõi ngoài tôi lại; lời chở tôi trôi dạt mải mê. Cô thao thao về những tiếng chuông trong các tác phẩm văn chương Nga-la-tư.2 Những tiếng chuông ấy tắt đi từ Maxim Gorki, người khởi đầu cho một nền văn chương Nga-Xô-viết. Từ độ ấy tiếng chuông đã bị bóp cổ, cô nói. Chuông Nga xưa ấy sao giống tiếng chuông trong những bài văn mẫu của thầy Kính dạy tôi! , tôi reo, tiếng chuông nào cũng bay và mang theo ánh sáng.

Cô còn kể thêm chuyện một ông pốp3 già ở Nga suốt đời băn khoăn về một câu thơ chữ La tinh khắc trên chiếc chuông cổ của giáo đường cụ. Cụ ăn không ngon ngủ không yên suốt 70 năm vì câu thơ ấy. Rồi cô đọc câu thơ tiếng La tinh ấy- dĩ nhiên tôi mù tịt – nhưng tôi vẫn nhớ được câu thơ bắt đầu bằng một cái âm từa tựa như là luna4 – giống tên hiệu đèn Huê kỳ nhà tôi đang dùng . Rồi cô dịch ngay: Rừng  đẻ trăng. Tiếng chuông của cỏ. Câu thơ đã làm cụ pốp phải kêu lên: “Người đời xưa mà làm được những vần thơ mới đến như thế ru!?” và cụ nghi đó là thơ ngàn-hoa-nội-cỏ của Virgil5. Nhưng rồi, dù miệt mài đọc thơ của Virgil và cả của các thi sĩ La tinh khác đến bạc cả mái đầu, cụ vẫn không kiếm ra gốc tích câu thơ. Cuối cùng chuyện đến tai một anh thợ cày trong vùng, anh ta bèn phán với thằng con, vốn là trò giúp lễ của cụ pốp : “Mẹ, biết đâu thằng thợ đúc chuông khắc sai!? ” Chú bé mách lại với cụ pốp , tóc cụ đang bạc trắng hóa ra đen; rồi cụ bỏ xứ đạo mà đi, không biết đi đâu…

– Cô đã ở Nga ?

– Em là công chúa Anastasia6. Em là công chúa ngàn đời của Ðất Nước em. Khi gã Lênin ám sát em, gã đã làm một việc rất dại dột: Gã đã phong thánh cho em.

– Cũng như tiếng chuông?

– Ðúng, làm sao hắn bóp được âm vang của muôn vàn chuông vàng đã thấm vào từng cục đất, hạt cỏ nước Nga cả hàng ngàn năm.

– Thế là cô không cho là câu thơ La tinh khắc trên chuông mà cô vừa kể là sai từ vựng, sai văn phạm?

– Không, đó là một câu sấm hoặc một câu thơ thị kiến.

– Xem ra nước Nga sinh ra khá nhiều những con người thị kiến…

– …và những con người hoang tưởng. Tôi nghĩ là gián tiếp giáo hội Chính thống Nga với những lễ nghi phụng tự và các hình thái nghệ thuật liên hệ chẳng những đã sản sinh những con người đầy thị kiến như Dostoievsky, Paternak mà còn tạo nên những kẻ hoang tưởng như Léânine và Stalin. Cứ thử vào tham dự một thánh lễ nơi nhà thờ Chính thống Nga anh sẽ cảm nhận được những điều tôi nói. Các ông pốp và các tín hữu như đang tận hưởng những hoan lạc siêu hình suốt cả hai ba tiếng đồng hồ giữa giòng nhạc rền rỉ, ray rứt, khát khao, giữa chơi vơi trầm hương, nến sáng. Elohim! Elohim! Elohim!7

– Còn tiếng chuông?

Nàng im lặng không đáp. Cú bắt đầu rúc loanh quanh. Muỗi bay vòng, quanh mặt nàng ánh xanh lấp loáng. Nàng đi đi lại lại dưới vòm cây, đôi khi mơn man một chiếc lá, đôi khi như đang lặng nghe tiếng nghìn trùng, lại có lúc thầm thì chuyện vản. Quên cả rừng chiều sắp đóng. Tôi ngồi trên tảng đá ngóng cổ nghe nàng; ngờ ngợ nàng như Ðức Giêsu, và tôi, như thánh nữ Mađalêna, đang ngồi dưới chân nàng uống suối nguồn trí huệ từ môi. Một lúc sau, miệng nàng mấp máy máu tươi:

– Tôi chỉ biết bay trong tiếng chuông nước Nga, nhưng tôi nghĩ chỉ có các ông pốp dưới thời Xô viết mới thực sự sống tiếng chuông. Họ là những Quasimodo10 gánh oằn vai những sầu thương nhân thế và của chính đời mình. Nghĩ mà thương…

– May có Esmeralda chia xẻ gánh gian truân.

– Anh có biết không, tôi vào Nam để nghe, để nhìn những tiếng chuông cuối mùa?

– Tại sao lại là cuối mùa? Tôi tin rằng chính phủ đương thời, rút kinh nghiệm bên Nga, sẽ vẫn cho giật chuông nhưng lại ra sức khuyếch đại âm thanh của chiếc loa vốn đã rỉ sét của mấy ông ấy. Và họ tin là loa sẽ thắng chuông. Cô có nghĩ như vậy không?

– Làm sao mà biết được. Ai mà hiểu được Bóng Tối!

Và tôi cúi đầu nhẫn nhục để cho bóng tối tràn lan, che kín nhãn quan và nuốt chững tâm tư. Nghe đời mình quen dần mộ địa.

Nhưng rồi không biết bàn tay huyền hoặc cỏ cây đã cởi quần áo nàng hay chính nàng đã tự khoả thân mà, khi ngước lên, tôi thấy nàng đang trần truồng, đong đưa ảo diệu như một chiếc bình pha lê treo giữa tà huy.

Có tiếng thì thào đâu đó trên muôn ngàn lá:

– Bóng tối đã bóp nghẹt cả giang san. Tôi phải về nhà cha tôi. Cha tôi có nhiều chỗ ở, anh có về không, anh có về không?

Nàng tan loãng theo tiếng gà rừng gáy sảng: Hoàng hôn mà cứ ngỡ bình minh.

 

Trời gần đứng bóng tôi ngủ mới dậy. Sáng dậy đi làm không nổi dù má kêu năm lần bảy lượt. Ði tàn tàn qua nhà thằng em hút điếu thuốc lào cho tĩnh, thấy mấy anh hàng xóm đang phụ nhau xẻ thịt một con chó. Máu me vung vãi, lấm lem những chùm lông chó trắng nõn lung linh như muôn ngàn mũi kim dưới trời trưa nắng đổ.

– Kiếm được con cầy đâu mà ngon vậy, mấy cha !? – Tôi hỏi

Thằng Năm, em tôi, cười hề hề:

– Ngon cái khỉ mốc, thịt ba con chó cái, mười con hết chín mềm xèo! Ðầu hôm ra rẫy gần suối Rạn để canh heo rừng, thấy nó cứ xớ rớ cạnh chòi, đã vậy lại còn rên ư ử như rượng đực, tui ngứa máu nhào lại tính phang cho một một cuốc, vậy mà nó vẫn đứng im nhìn tui, làm tui phải gượm tay lại…

– Rồi sao…?

– Tính để kệ mẹ nó, nhưng nghĩ lại thấy gió bấc thổi mạnh, trời động cá mắm không có, tui tròng cổ trói lại, bỏ bị vác về hồi hôm.

– Hay là chó bị người ta thuốc mậy? Coi chừng ăn ngọng miệng cả đám! Vả lại chó của người ta…

Anh hàng xóm đỡ lời:

– Không sao đâu anh ơi! Tụi em đi xẻ ván hằng ngày trong rừng thấy con chó nầy cứ chạy lông rông trong rừng cả mấy năm nay rồi; chắc ai dời nhà không đưa nó theo. Tụi em tính thịt nó từ lâu rồi mà không được. Nó cứ thoáng ẩn thoáng hiện; không biết sao đêm qua lại lại dẫn xác đến rẫy nhà anh như vậy. (Tôi với em tôi làm chung một rẫy).

Thằng Năm phụ họa:

– Ðúng như vậy đó anh Tư… Thôi, chó nào cũng là chó! Mà anh Tư nè… đang kẹt không biết kiếm đâu ra trái dừa khô để hầm chó. Không biết dừa bên má có buồng nào già chưa, anh về chỉa cho tui ít trái.

– Hôm qua má nhờ thằng Hào chọc xuống bán sỉ cho bà Tám ngoài chợ hết rồi…  mà thằng Hào con Huệ đâu cả rồi?

– Thằng Hào dọt ra đâu đầu xóm, còn con nhỏ Huệ còn ngồi khóc đằng hồi nhà. Ai đời nó với thằng Hào cứ giành nhau cái chuông con chó, la lối um xùm. Xùng máu, tui xáng cho một đứa một cái bạt tai. Cái thằng mất dạy nó lì đòn, còn con nhỏ cứ khóc rấm rứt hoài… Mẹ, ở đây chó nhà quê mà ai đó còn treo cái thứ chuông lục lạc như chó Tây không bằng! Nhưng phải công nhận cái chuông thiệt đẹp, bóng lộn như vàng.

– Giờ ở đâu rồi?

– Nóng gà, tui dụt mẹ xuống ao cho khỏi cãi nhau… Mà anh Tư à, kẹt quá, không có dừa khô thì khó mà hầm thịt chó cho ngon được!

– Sao không đạp xe ra ngoài chợ chồm hổm mà mua?

– Chợ búa xa xôi quá, mà chắc gì đã có!

– Thôi, để tui lên cha xứ xin cho các ông một trái. Hôm qua tui còn thấy cây dừa bung bên giếng của ổng có mấy buồng già rồi.

– Không dễ đâu, ổng kiết lắm.

– Mầy đừng có nói vậy. Các cha phải giữ thế chớ! Cha là cha trăm họ; cho người này mất người nọ.

– Ừ, thì cũng được đi. Nhưng anh là cái gì mà anh cho là cụ sẽ chơi đẹp với anh?

– Mầy không nhớ anh mầy là trưởng ca đoàn sao!?

Trời đứng bóng. Khi vừa đến trước nhà thờ cổng nhà thờ, tôi thấy ông cha xứ đang giật chuông trưa truyền tin, thấy cả bóng dáng một thiếu nữ quần áo trắng thấp thoáng giữa những bụi hoa trúc đào cao tới vai cạnh tháp chuông. Tôi không thấy rõ mặt người con gái, vì mái tóc thề lơ là che kín một nữa khuôn mặt; và dường như cô nàng đang lắng nghe chuông. Tôi để ý thấy trên mái tóc bên trái có cài một cánh hoa bằng lăng và dưới chân đeo một đôi giày cao gót màu trắng, kiểu giày cao cấp vẫn thấy bán trong các cửa hàng quốc doanh số một ở Mạc Tư Khoa vào những thập niên sáu mươi, bảy mươi. Giật chuông xong, ông cha hối hả đi vào nhà xứ, hay nói đúng hơn, hối hả đi thẳng vào nhà bếp. Tôi đang  bận thu xếp câu cú trong đầu sao cho khéo, để thỉnh bằng được một trái dừa nạo của cụ cho mấy thằng đàn em nễ chơi. Khi ngước lên, tôi không còn thấy cô gái đâu.

Khi vào tới cửa bếp nhà xứ, tôi thấy cụ đã ngồi thoải mái giữa chiếc bàn rộng mênh mông đầy ắp thức ăn: cá, thịt, trái trăng, đủ màu đủ cở. Và còn có cả chai rượu lễ đỏ như máu, hiệu Cờ đỏ, sản xuất tại Liên Xô – vì tôi thấy có cái tên Cộng Hoà Liên Bang Xô Viết, viết tắt bằng mẫu tự Nga, CCCP, to chần dần trên nhãn, mà bọn trẻ trong làng, không biết ai bày, từ lâu đọc là Coi Chừng Chúa Phạt.

Tôi chào, cụ  im. Tôi bèn tự động kéo ghế ngồi, cụ hơi khó chịu, nhưng cụ vẫn tiếp tục ăn và không chào hoặc hỏi tôi một câu dù chỉ cho có lệ. Tôi thấy giấc mơ trái dừa khô bị bóp nát tàn nhẫn. Và khi đang loay hoay giữa phẫn nộ và khinh bĩ, tôi thấy người đẹp áo trắng lúc nãy đi vào và đứng ngay trước bàn ăn, nhìn thẳng vào cụ. Tôi nửa ngờ ngợ nửa khoái trá nhìn cô gái mặt hoa da phấn.  Ông cha xứ vừa xăm xói ăn vừa hỏi, câu hỏi lửng lơ không chủ từ mà những kẻ bề trên hay dùng:

– Ðến đây có việc gì?

Cô nàng đáp ngay, dù chưa chắc ông cha xứ đã hỏi cô, giọng thỏ thẻ, (tôi bắt buộc dùng cái chữ rất đỗi cải lương này, nhưng chỉ có động từ này mới diễn tả được đúng cái giọng của cô gái lúc đó):

– Con đến để tìm tiếng chuông của con. Tiếng chuông con lưu lạc chưa về. E chừng mất hẳn rồi, cha ơi!

Tôi nghe chuông rừng vọng ngược về. Tôi nghe pha lê rạn vỡ.

Và cô vẫn đứng đó nhìn vị linh mục đăm đăm như đang cố tìm nơi ông tiếng chuông của cô; và bỗng nhiên, ánh mắt cô tối sầm lại.

Ông cha xứ hoặc không nghe cô ta trả lời hoặc không thèm để ý đến cô ta, như thể cô gái không hề đứng trước mặt ông, bởi ông chỉ nhướng mắt nhìn tôi, và rõ ràng là ông đang giận tôi vì tôi đã không trả lời ông. Thực ra không phải như thế, chẳng qua tôi đã không nhanh miệng hơn cô gái.

– Dạ con đến để nói chuyện với cha cho vui – Bây giờ tôi mới trả lời được.

Rõ ràng câu trả lời của tôi chỉ cho đỡ ngượng, bởi phương án xin dừa hầm thịt chó đã cháy tiêu ngay từ phút đầu gặp gở. Sượng trân, tôi nhìn bâng quơ ra ngoài cửa sổ một lúc; khi quay lại, cô gái đã đi từ hồi nào – và hình như không thèm chào ông cụ – và tôi chỉ thấy một bà già áo quần vá chằng vá đụp, đầu quấn khăn xứ Nghệ, một bà Bắc bộ chính hiệu, đứng ngay chổ cô gái đứng lúc nãy. Bà ta khúm núm, hốt hoảng:

– Thưa cha, mấy thằng chăn trâu mới phát hiện con mẹ Ngọc treo cổ tự vận ngoài suối Rạn đâu hồi hôm.

Ông cha vẫn cắm cúi ăn:

– Ngọc nào?… Mà sao lại biết là đêm qua?

– Con-Ngọc-đĩ-Liên-xô đó cha! Biết là đêm qua là vì nếu ả treo cổ giữa ban ngày mấy anh thợ cưa, mấy đứa chăn trâu phát hiện ra ngay. Cái đồ đĩ đó có chết cũng…

Ông cha xứ bây giờ mới ngước mặt lên:

– Bậy nào, sao gọi người ta là đồ đĩ, rồi còn gọi là đĩ Liên Xô là làm sao!?

– Thì con ni, hồi còn ở ngoài nớ, giỏi giang răng đó lại được đi học Liên Xô. Học đâu được mấy năm mà lại cứ lân la tằng tịu với mấy ông cha râu xồm ở bên nớ.  Trình cha, không biết tại răng mà người ta gọi mấy ông cha Liên Xô như rứa?

– Ừ, tại vì các linh mục theo giáo phái Chính thống có tập tục để râu dài như thế.

– Chớ không phải các ông ấy sinh đàng tội lội mà người ta kêu như rứa?

– Khồồồng… Làm gì có chuyện đó! – Ông linh mục gạt ngang, rồi hăm hở hỏi tiếp, trái cổ đưa lên đưa xuống – Rồi sao nữa?

– Thì bị nhà nước kéo cổ về nước chơ sao nựa cha! Ðã vậy còn lăng nhăng mô ngoài Hà nội mấy năm; lại lân la đến các nhà thờ. Có bựa đi tham quan mô đó nhà thờ chính toà, ả lại chài mồi được thầy giảng Chung8. Cha có biết không: Chẳng ai kéo chuông hay bằng thầy nớ. Thiệt uổng công tu trì mấy chục năm gian khổ cha nợ!

– Rồi sao nữa bà? Rồi sao!?

– Thì thầy xấu hổ quá, phải xin đi bộ đội vào Nam. Có kẻ nói thầy chết mất xác nghe đâu trong một trận đánh lớn ở cái tỉnh Thuận Hải nầy; có kẻ lại nói thầy hàng địch rồi xin đi tu làm cha đâu ở trong Nam.

– Rồi sao nữa!? Rồi sao nữa!?

– Nghe thằng cháu của con học đại học ở Hà nội nói là người ta còn đồn ả cứ quần là áo lượt vô ra toà đại sứ Liên Xô, còn đi múa đôi, ăn uống với mấy ông nớ.

– Sao người ta biết hay vậy?

– Thì có anh người cũng ở quê với chúng con, làm to đâu trong bộ, trong phủ chi đó ngoài nớ, phải lòng ả, mê ả, răng đó không được, thất tình, uống rượu, nói lung tung phèng.

– Có gì nữa không, kể cho cha nghe!

– Chúng con vô Nam đầu tắt mặt tối bới đất lặt cỏ mới kiếm được đôi miếng bỏ miệng, còn ả cứ ăn trắng mặc trơn đi lòng dòng trong rú.

– Vô rú mần cấy chi rứa? – Lần này không biết tại sao ông cha lại trọ trẹ giọng Nghệ, quên béng cái giọng Hà Nội mà ông cố uốn lưỡi bao năm để, khi đứng trên toà giảng, giảng cho oai, cho ra cái vẻ mình là dân Thăng Long ngàn năm văn vật.

– Thì nằm với mấy thằng thợ cưa trong rú chơ mần chi nữa cha nợ. Chơ của mô mà ăn trắng mặc trơn đi cà nhỏng cả mấy năm ni… Nhưng mà trình cha, dừ ả treo cổ chết như rứa, họ9 chúng con không biết làm phải mần răng đây?

– Mà ông trùm chồng mụ đi đâu mà mụ lại vô đây?

– Nhà con đi xẻ ván trong rừng từ hôm qua; không biết chết rấp xó nào góc nào mà trưa vẫn chưa thấy về.

Khuôn mặt ông cha hăm hở lúc nãy bây giờ ra dáng lập nghiêm:

– Hay là đêm hôm lại đi la cà… Thiệt là bê bối!

– Dà…

– Mà nì, không thấy chị ta đi nhà thờ nhà thánh chi cả, chắc là phường vô đạo?

– Có mô cha! Cha mẹ của ả đạo dòng mà! Gia đình ả ngoài nớ ở cách nhà chúng con có ba bốn căn chơ mấy!

– Dù có đạo đi nữa mà tự tử thì không được chôn trong đất thánh. Chôn đâu cũng được, không được chôn đất thánh.

– Thôi rứa cũng được chơ hơi mô mà mất công khiêng cả bốn năm cây số đường rừng những kẻ…

– …những kẻ cướp quyền ban phát sự sống của Chúa. Tôi sống không còn phải là tôi sống nhưng là… Chắc mụ còn nhớ?

– Dạ nhớ. Cám ơn cha… Con sẽ về báo cho họ đạo của con biết lời dạy của cha.

Rồi bà trùm già cắp nón le te đi ra.

Một luồng gió bấc thổi mạnh làm vô số những cánh hoa dầu lông bay ào ào xuống phía trước đài Ðức Mẹ.

Tôi vọt ngay khỏi nhà xứ quên cả chào ông cha xứ; chạy ngay ra phía suối Rạn. Tới nơi, tôi thấy có độ chục người đang còn đứng đó chỉ chỉ chỏ chỏ cây bằng lăng độ lượng hoa tím mát tinh khôi. Dây treo cổ vẫn còn đong đưa trước gió như xác rắn hồng hoang mới lột, nhưng xác của người đàn bà tên Ngọc ấy tôi không biết nguời ta đã hạ xuống hồi nào và đưa đi đâu. Có anh đàn ông đưa hàm răng hô ra vừa cười vừa chỉ về phía bìa rừng không xa cội bằng lăng là bao nói, dù tôi không hỏi:

– Chòi ả đằng nớ, chòi ả đằng nớ tề.

Tôi thấy phía đằng đó có một mái tranh, thật nhỏ nhưng khá xinh xắn nằm cạnh con suối cạn, gần chỗ tôi đi kiếm trâu chiều qua. Tôi chạy nhanh đến chòi. Chòi với liếp cửa lác đan theo hoa văn của các sắc tộc người Á sống trong rừng taiga Tây Bá Lợi mà tôi có dịp xem trong các tờ báo ảnh Liên Xô. Và không có ai quanh chòi; vì sợ hồn ma người đàn bà chăng? Tôi giật liếp xông vào, thấy chỗ, mà những nhà khác người ta phải dành để treo hình chúa Hồ, là hình một cái chuông lớn vàng rực ánh sáng với hàng chữ mà tôi đoán là câu thơ La tinh vì nó bắt đầu với chữ luna. Phía bên phải gian chính là chái bếp. Và bên trái còn có một căn phòng bé, thật bé, có lẽ là phòng riêng của chị ta, có khoá; tôi giật tung ổ khoá nhìn vào, thấy bên trong có một chiếc giường… nệm với khăn trải giường và  hai chiếc gối, cả hai thứ đều trắng muốt phẳng phiu – những hình ảnh ước lệ mà các nhà-văn-có-lý-lịch-nằm-ổ-rơm thường dùng trong những phân cảnh mô tả những trò hủ hoá của các giai cấp bóc lột; và mùi hương ngọt ngào vẫn còn lẩn khuất trong phòng. Trên đầu giường tôi thấy một bức tranh màu nước, không lộng kiếng, vẽ một vùng cỏ xanh rối rắm, tựa cỏ tranh, bên trên là một hàng chữ Nga viết bay bướm, mới trông thì giống như những đám mây nhỏ, nhưng nhìn kỹ thì giống như mái tóc con gái – không hiểu sao tôi cứ đinh ninh đó phải là tóc con gái chứ không phải là tóc đàn bà – đang chờn vờn trên muôn nhánh cỏ. Hàng chữ viết tháu bằng mẫu tự Nga ấy là hai câu thơ Việt: Tiếng chuông của tôi nay đâu Chìm đâu khe suối hay mầu cỏ cây.  Tôi còn tìm thấy dưới gối một cuốn sổ mà tôi cầm chắc là cuốn nhật ký; và có cả chiếc roi đánh trâu của tôi cuộn quanh cuốn sổ, như một con rắn hổ mang đang bảo vệ Kinh Thiêng trong các bức phù điêu Ấn độ. Tôi thử giở vài trang, có trang viết bằng mẫu tự tiếng Nga, cố đọc vài dòng nhưng chẳng hiểu gì, có trang lại là thứ văn tự tượng hình kiểu như cổ tự Ai cập đầy biểu tượng chim, người, hoa lá, mãnh thú, nông cụ.

Bỗng, tôi nghe có tiếng trống cà rùng và tiếng hét, của nhiều người lắm thì phải: “Ðả đảo con đĩ Liên Xô! Ðả đảo con đĩ Liên Xô” và hình như họ đang tiến lại phía chòi. Tôi nhét cuốn sổ vào bụng, chạy tọt ra ngoài và thấy ngay một đoàn mấy thằng chăn trâu vừa đang hô hoán vừa hằm hè cầm mồi lửa chạy xốc tới. Thế nào mà chúng nó chẳng thấy tôi đang từ trong chòi “con đĩ Liên Xô” chạy ra!

Và bọn nó đốt chòi. Lửa cháy đượm phải biết! Gặp gió mà lại!

Ðột nhiên có thằng hô to:

– Ðập chết cha cái thằng dê xồm!

“Ủa chẳng lẽ là tôi?” – Tôi ngạc nhiên tự hỏi.

Không cần biết, tôi chạy thí mạng về hướng mặt trời. Chạy một đỗi, lạ quá, không thấy ai đuổi theo. Mừng rơn. Chắc lũ trẻ đang bận xem lửa cháy. Tôi còn nghe mấy thằng nhãi vừa vỗ tay vừa hát cả bài Kết đoàn kiểu mới Rừng núi giang tay nối lại biển xa11… sau lưng.

Khi hoàn hồn tôi thấy mình đang đứng trước bãi biển, thở dốc. Coi vậy chứ  bọn chăn trâu đâu có tha đâu tôi đâu mà đã vội mừng, vì loáng thoáng phía rừng tràm dọc bãi biển, tôi thấy chúng đang lội bì bọp như đàn trâu điên, tay đao tay mác, rõ ràng là đang rượt theo tôi, và lần này chúng hô một khẩu hiệu khác: “Ðả đảo cái thằng liếm lồn! Ðả đảo cái thằng liếm lồn!” Quýnh quáng, tôi ném luôn cuốn sổ ra biển, nhưng cuốn sổ cứ dật dờ bên mép sóng; những lượn sóng dữ bổ ập vào vẫn không nhận chìm được cuốn sổ; và sổ vẫn đóng kín. Khiếp quá vì sợ mấy tay đánh trâu chộp được, tôi nhảy vội lên cuốn sổ, dí nó xuống nước, nhưng bỗng nhiên tôi cảm thấy người nhẹ tênh tênh: Cuốn sổ mở toang lòng đưa tôi lướt phăng phăng trên điệp trùng sóng dữ, nhanh đến nỗi chưa hét xong “Giêsu Maria, lậy Chúa tôi!12“, tôi đã đặt chân khô ráo lên bờ biển đảo Bidong, Mã Lai.

Ở trên đảo ấy cũng có một nhà nguyện nhỏ cho những thuyền nhân tị nạn Công giáo, và một cái chuông ai đó gắn lẳng lơ trên cây bằng lăng tím ngát màu quê. Và, mỗi lần nghe chuông truyền tin trưa chiều, nhất là chuông chiều, thay vì đọc kinh, tôi lại bắt đầu chửi, chửi tôi đã không theo cô gái pha lê về nhà cha cô hoàng hôn hôm đó.

Sau này, khi đã được định cư, tôi mò mẫm học lại tiếng Nga (cố ý để đọc cuốn sổ tôi lấy trong nhà người đàn bà tự vẫn tên Ngọc, mà sau hơn hai mươi năm, qua bao sóng to gió cả, chữ vẫn còn rõ nét. ). Nhưng, khi học được tiếng Nga ở mức có thể đọc được các tác phẩm cổ điển văn chương Nga-la-tư, thử giở lại cuốn sổ để đọc, tôi lại đụng phải cái văn phong phù thuỷ từa tựa như văn phong trong những sưu tập sấm ngôn của các nước Bắc Âu nơi  tôi đang cư ngụ. Ấy là chỉ nói tới phần tiếng Nga; còn phần chữ  chim-cò, đành chịu thua.

Vào dịp sang viếng Rôma, Năm Thánh 2000, tôi mang theo cuốn sổ có ý để nhờ giám mục Nguyễn Văn Thuận, một vị chủ chăn vốn thông kim bác cổ, mà báo chí người Việt hải ngoại đã thuật lại là thời gian ở tù ngài còn cố gắng học đến thông thạo tiếng Nga, và còn soạn được cả từ điển Nga – Việt, để ngài đọc và giải nghĩa dùm.

Nhưng nghĩ ngợi loanh quanh, tôi lại thôi.

 

  Oslo, 6.8.00 – 3.11.02

 

(1) Angelus… (tiếng La tinh): Thiên thần của Chúa truyền tin cho  Maria. / Và bà đã chịu thai bởi phép Ðức Chúa Thánh Thần… Và Ngôi Lời đã trở thành xác thịt./ Và ở giữa chúng ta. (Trích từ kinh Truyền tin, nói về chuyện sứ thần của Ðức Chúa Trời truyền tin cho Ðức Bà Maria về việc bà sẽ chịu thai Ðấng Cứu Thế Giêsu, theo Kinh Thánh Tân Ước. Người Tây họ gọi kinh này là kinh Angelus, vì chữ Angelus là chữ đầu của kinh, bản La tinh. Tôi, kẻ viết truyện này, khi cô gái đọc kinh này bằng tiếng La tinh thời nhớ lại ngay, vì phải học thuộc lòng kinh đó từ lớp 6, và bây giờ vẫn còn nhớ để chép ra đây. Còn câu thơ kỳ bí ở khúc sau thì chịu, không nhớ được.)

(2) Nga-la-tư: Tiếng dùng để phân biệt với nước Nga-xô-viết sau này.

(3) Pốp (tiếng Nga): dùng để xưng hô các linh mục Chính thống Nga.

(4) Luna (tiếng La tinh ) : trăng

(5) Virgil: Thi sĩ La tinh cổ đại; chính ra tên La tinh là Publius Virgilius Maro (70  –  19  tr. CN)  , sở trường về thơ đồng nội. Thơ của ông có ảnh hưởng nhiều nền thi ca Tây phương qua các thế hệ.

(6) Anastasia: Công chúa út của Nga hoàng Nicolas II, bị hạ sát cùng với cả gia đình, do chính lệnh của Lênin.

(7) Elohim (tiếng Do thái) : Chúa; ngoài ra Ðức Chúa Trời, trong Cựu ước, còn tự xưng ngài là Gia vê. Trong các bài kinh của đạo Chính thống Nga, người ta hay kêu thánh danh này.

(8) Chung: Âm Hán Việt có nghĩa là 1. chuông, 2. hết.

(9) Họ: Một xứ đạo chia ra nhiều họ đạo.

(10) Quasimodo (nam), Esmeralda (nữ): Hai nhân vật chính trong tác phẩm Thằng Gù Nhà Thờ Ðức Bà Ba Lê của nhà văn Victor Hugo.

(11) Lời của bài Nối Vòng ta Lớn của Trịnh Công Sơn.

(12) Giêsu Maria lậy… : Câu tán thán người Công giáo hay dùng.

 

 

 

NTNV 8 : Bu Bu Woa

NTNV 8 –

Nguyễn Văn Thà

 

https://giacngo.vn/UserImages/2012/01/07/5/imageview_aspx_thumbnailid_540694.jpg

Dưới huy hiệu của các giám mục luôn luôn có câu châm ngôn tiếng La tinh để tỏ ra cái chí của mình, thường là một câu rút ra từ Kinh Thánh, ví dụ, Omnia in omnibus – Tất cả nơi mọi người, (kiểu như: Ðâu cần thanh niên có, đâu khó có thanh niên) ; hoặc Deus caritas est – Thiên Chúa là tình yêu. Nhưng khi linh mục Harry được thông báo sẽ được phong làm giám mục kiêm tổng giám mục địa phận N, thì ông lại chọn câu Bu bu woa, đọc nghe như tiếng chủm choẹ. Vị Giáo hoàng đương kim B, vốn là bạn chí thân của linh mục Harry, hồi hai vị còn học ở thần học viện thánh Grêgôriô Cả, Rôma. Khi duyệt qua lý lịch của cha Harry, ngài OK, nhưng khi đọc tới câu châm ngôn Bu bu woa, thì ngài chẳng hiểu gì dù ngài được kể là vị Giáo hoàng thông thái; ngài thông thạo đến cả tiếng Ả rập và các phương ngữ liên hệ, huống hồ tiếng La tinh. Ngài bèn điện thoại hỏi:

– Này, anh Harry.

– Tâu đức thánh cha1, ngài có chuyện gì muốn dạy con?

– Tâu với lại trình! Chứ cái câu châm ngôn của anh gì mà lạ hoắc, tôi chẳng hiểu chút nào cả.

– Thưa đức cha thánh cha, con vẫn nhớ hồi còn học ở thần học viện Grêgôriô Cả, đề tài mà đức cha thánh cha và con vẫn hay thích tranh luận là dominium divinum2. Câu châm ngôn Bu bu woa tự nó là một phần của cảnh vực linh thiêng  của con.

– Anh cũng dư biết là khi chúng ta ở trong cương vị của một giáo sĩ, thì  mình không còn là mình nữa; mình là người của công chúng đạo cũng như đời; nhất là khi anh lại sắp làm giám mục, kiêm tổng giám mục một địa phận lớn như địa phận N !

– Sorry, con không thể làm khác đi được!

Giáo hoàng B mỉm cười, nghĩ thầm: “Cái anh cao bồi này vẫn chứng nào tật nấy!”

 

Cụ Robert nguyên là một người hay chữ bởi cụ trước có đi tu, nhưng vì trong thời gian giúp xứ người Créole3, Cajun ở tiểu bang Louisiana, cụ phải lòng một phu nhân quý phái ở đó. Tương truyền bà này có vẻ đẹp dã dượi giống như nàng Josephine, tình nhân của vua Napoléon đệ nhất, làm thầy giảng Robert chết trân. Khi nhập cuộc rồi thì ra phu nhân ấy chẳng mệt chút nào mà lại dai chẳng thua gì mây trui lửa. Dai và rối rắm.

Ôi, cái xứ Créole ấy, tuy là đất mới nhưng những ông tây bà đầm vẫn mang theo đủ mọi thứ từ mẫu quốc Phú Lang Sa sang, từ chiếc quạt lông đà điểu e ấp che những khuôn mặt ngọc cho tới những chiếc áo đầm xoè thắt lưng ong; nhũ hoa dâng hương, trắng trẻo, mịn màng, phô ra khỏi làn lụa Tô châu áng chừng hơn nửa. Ngoài ra, các ông bà ấy cũng không quên mang theo cái quan niệm gọi là danh thơm tiếng tốt mà theo họ đã làm nên cái nét văn minh đặc thù Ðại Pháp; chứ không giống như cái đám lạc chợ trôi sông Tô Cách Lan, Ái Nhĩ Lan, ấy là chưa nói tới cái giống mọi da đen.

Thầy Robert lạng quạng sao đó làm cho phu nhân Michèle, vợ yêu của một đại điền chủ trong vùng có bầu. Trong lúc bối rối một phần vì cái gọi là danh thơm tiếng tốt, một phần vì sợ phải ăn kẹo đồng, thầy Robert, nhờ sự giới thiệu của một thủy thủ lúc trước là trò giúp lễ, nhảy xuống chiếc tàu buôn nô lệ sắp sửa nhổ neo đi Phi châu.

Và thầy vượt biên, và thầy trở thành thầy ký cho tàu. Thầy là người trí thức số một trong đám thuỷ thủ, vì  không những thầy biết đọc Kinh Thánh, bản King James, cho các thủy thủ nghe trong những khi gặp nguy biến trên biển cả, mà cả những lúc bình yên gió lặng, thầy nằm phơi trên boong tàu đọc Kinh Thánh, bản Vulgata4của thánh Hiêrônimô dịch ra tiếng La tinh, cho đã. Những lúc như thế thầy cứ hít hà, như bợm rượu nhà nghèo lâu ngày uống được rượu ngon, vì lối dịch tài tình của thánh nhân và nhất là vì cái cơ cấu sít sao, chặt chẽ đến cùng cực trong cấu trúc của tiếng La tinh: Thầy là con người thích và có khiếu về ngôn ngữ.

Nghe nói trong thời gian giúp xứ người Créole vùng Lafayette, thầy đã bắt đầu ghi ghi chép chép ngôn ngữ của giống người da đỏ Pueblo trong vùng. (Thầy không bao giờ dùng từ ngữ mọi ) . Nhưng bút của thầy quờ quạng sao đó chấm nhằm bình mực tím duyên tình với nàng Michèle nên mới phải trôi nổi đến tận Phi châu, cái xứ có đến ngàn thứ tiếng mọi.

 

Bà Michèle, sau bao lần uống thuốc xổ mà thằng nhỏ vẫn thủ thành không chịu ra, đành hạ sanh một con trai. Cái đầu mới nhô ra là biết ngay thằng nhỏ giống thầy giảng Robert, vì tóc nó cũng đen như người yêu sở khanh của bà. Cái chuyện vợ ông chửa hoang làm ông Duval (quý danh của ông chủ điền ngoan đạo) ngước mặt lên không nổi, nhất là khi ông đường đường là chủ tịch hội đồng giáo xứ. Ðã thế, những cái miệng dài như miệng sếu Louisiana của mấy mụ mệnh phụ phu nhân làm ông bực bội khôn xiết. Bà trốn lên vùng Ðông Hoa Kỳ làm lại cuộc đời mới. Và hạ sanh một kiếp người mới.

Mới thế nào, cụ Duval cũng chẳng thể biết rõ, nhưng khoảng ba năm sau, có một bà vú da đen, vú to, mông bự lúc la lúc lắc chẳng khác gì mông tê giác, dẫn đến cho ông một thằng nhỏ mặt mũi, tóc tai giống y cái thằng thầy giảng khốn nạn Robert. Mụ nói là bà Michèle muốn nhờ ông nuôi giùm cậu bé vì nơi bà chủ đang làm business, ở N, cậu sống không tiện; và mụ còn đưa tấm hình bà Michèle ngày xưa chụp với ông trong hôn lễ làm bằng. Tấm hình làm ông muốn khóc, bởi dẫu sao đi nữa, ông vốn là con nhà nông bao đời tính tình hiền hậu. Nhà nông là con người ngày ngày chứng kiến không biết bao nhiêu chuyện giao tình của muôn loài: bò, gà, heo, chó… và cả những trái trăng trong vườn ngoài nội: Sinh linh không phải tự dưng mà có. Ông trân quý mọi kết quả sinh sôi. Huống hồ của con người. Sốc thì có sốc đấy, nhưng bây giờ thì thôi, ông mỉm cười đón nhận. Và ông còn mỉm cười sung sướng, không giống ai, khi ông thấy nơi thằng nhỏ một phần hình hài của người mình má ấp môi kề. “Coi kìa, đôi mắt đen láy như những đêm sao Provence, cố hương của Michèle, và cặp lông mày nguyệt quế, lắt lay như đuôi chồn hương, thì là của nàng chứ còn ai! Thôi, thì cũng qua đời nhau một lần.”  Vả lại, ông còn từng được nghe kể là cụ tổ của ông, một nhà thông thái về Bretagne ở ẩn thời Cách Mạng Pháp, nói là những tiếng như “con hoang”, “cái thứ lộn giòng” không có trong ngôn ngữ Pháp, thời dân Pháp còn là rợ Gaulois chưa chịu ảnh hưởng sâu đậm của văn minh Rôma.

Thằng nhỏ, không hiểu tại sao, được ông bố dượng đặt cho cái tên Spillman. Cậu Spillman càng lớn càng bảnh, nhưng khi đến tuổi mười hai, thay vì gởi thằng nhỏ vào trường dòng để “không tu được thì cũng kiếm ba chữ”, thì papa Duval lại gởi chú nhỏ vào trường thiếu sinh quân để cho nó cứng cát con người ra, kẻo như bố nó chữ nghĩa thánh hiền bề bề mà chẳng ra cái thể thống gì cả.

Spillman mỗi ngày phải thức khuya dậy sớm vừa học chữ vừa học quân sự theo trường phái quân sự của tướng Bismack: Người sĩ quan phải văn võ toàn tài. Chẳng bao lâu cậu trở thành sinh viên sĩ quan trường đại học quân sự W lừng lẫy. Không ai bắn súng nhanh, đánh kiếm giỏi và có sức chịu đựng dẻo dai, binh thư kim cổ làu thông như Spillman. Anh làm người ta nhớ tới tướng Brian Boru, người bẻ gãy xiềng xích đám Viking từng thống trị gần hai thế kỷ cố quốc Ái Nhĩ Lan của anh (đúng ra là của bố Robert.)

Ðường đường là một sinh viên sĩ quan ưu tú, sừng sững oai phong như cây trắc bá trên ngọn Driskill Hill thì chẳng thiếu gì các tiểu thư lá ngọc cành vàng để ý. Mấy cái anh sinh viên sĩ quan cà mèng chỉ cần búng tay một cái mà đã có khối cô chạy theo, huống hồ là chàng. Ấy vậy mà chẳng có tiểu thư nào lọt được vào đôi mắt đêm sao của chàng. Tươi mát ngọt ngào, nây nẩy diệm sơn, mền mệt chết người, mọi dáng dấp, giả có thiệt có, trẻ đếm không xuể, hồi xuân lại càng không thiếu, vậy mà chẳng nường nào công phá được đồn lũy tâm tư của Spillman, và cũng không làm cho chàng nở được một nụ cười mất nết thứ thiệt mở đầu cho muôn vàn ái ân cũng như những huỷ diệt đã gài đâu từ vô thuỷ vô chung. Hay là nói như cái dân An nam: Anh chưa gặp được ý trung nhân. Phải chăng cái mối tơ-hồng-Vi-Cố mấy anh Chệt-đuôi-sam mang từ bên Tàu qua Huê Kỳ đã cột anh sĩ quan Spillman với con nhỏ ăn mày nào đó, tuy rằng tới lúc đó chưa thấy cơ sự gì xảy ra? Cũng dám có thiệt lắm chớ, vì những lần nghỉ cuối tuần, chẳng phất phơ với các cành ngọc lá vàng nào đã đành, mà cũng chẳng thấy chàng sĩ quan trẻ tuổi Spillman la cà vào các saloon5 dập dìu ong bướm như các bạn cùng khoá. Người ta chỉ thỉnh thoảng thấy chàng tàn tàn đi vào các đồn điền bông vải, thuốc lá, ngồi nhìn đám dân da đen cày sâu cuốc bẫm. Ai cũng nghĩ là chàng thích cảnh điền viên. Thế thôi.

Vốn là sĩ quan tốt nghiệp ưu hạng nên chẳng bao lâu anh nắm giữ được những chức vụ quan trọng ngành binh. Anh là người có tài bố trí và thiết kế các đồn luỹ phòng thủ chống lại các cuộc tấn công của các giống mọi da đỏ phương Nam; cho nên không lạ gì trong tất cả các tiểu bang phía Nam và Trung nước Mỹ, không sĩ quan nào rành địa hình miền Nam như chàng.

Thế rồi bang Louisiana tuyên bố nghỉ chơi với mấy tay phương Bắc, và cùng với các bang lân cận, hè nhau thành lập một liên bang miền Nam, một phần vì  quý vị người Nam văn vật, (văn vật đây phải hiểu là nhảy đầm, thụt bi gia, và ăn nhậu kiểu cách, chứ văn học nghệ thuật chẳng có cái gì đáng vễnh râu cá chốt cả!) , mà cứ bị mấy cái thằng thợ xưởng máy, phu bến tàu phương Bắc, cụ thể là cái lão gốc dân cày Lincoln sai sử hoài, nên đâm ra bực. Bực lâu đâm ra điên tiết, nhất là khi lão ta về phe bọn trí thức rỡm và mấy ông mấy bà cố đạo công bố hiến chương giải phóng nô lệ, những nô lệ mà họ đầu tư một số vốn rất lớn, thì họ bùng lên chẳng khác gì  những phọt nước nóng trong công viên quốc gia Yellowstone, bị kìm hãm cả triệu năm, nay gặp cơn địa chấn, vọt lên bất kể trời đất.

Ðể gọi là đánh dấu ngày bang Louisiana đứng lên giành quyền đàn áp nô nệ, bộ chỉ huy quân sự mới được thành lập mời một đoàn người hát rong trắng lẫn đen đến giúp vui cho binh sĩ cũ có, mới có, đa số là lính mới tổng động viên. Kể ra cái anh tham mưu trưởng cũng biết ý, vì dân nhà binh chẳng mấy ai thích mấy cái điệu valse mềm èo như những sợi spaghetti  thiu. I chà, mấy cái điệu đàn tích tình tang nhịp theo mấy điệu múa khi thì lích tích, khi thì sầm sập của đám dân hát rong mới thú làm sao! Rồi tiếng cười ròn và trong như nhạc ngựa của các nàng nghe mới rộn! Và khi các ả liếc cặp mắt u uẩn lạc loài, thì lại càng làm rợn lòng các đấng nam nhi. Không có anh nào mà lại không muốn xung phong làm hiệp sĩ. Một đêm là giá chót!

Ðêm ấy, lần đầu tiên, người ta thấy trung tá Spillman chui vào chiếc xe thổ mộ lộng lẫy, huyền hoặc, thơm hương trầm muscat. Người ta còn sửng sốt hơn ngày xưa khi biết bố của anh, ông thầy giảng râu xanh Robert, làm mệnh phụ Michèle Duval có bầu. Không phải chỉ một đêm mà hai đêm, ba đêm, bốn đêm; cuối cùng sáng thứ năm, khi đoàn người hát rong nhổ trại, chẳng thấy ngài trung tá Spillman trở lại đơn vị, trong khi tiếng đại bác của quân phương Bắc đã nghe thật gần. Miền Nam đang cần anh và ngài trung tá lại bị bùa lú ngãi mê mất rồi! – Người ta kháo nhau như vậy.  Và: “Mẹ, đéo qua đường thì còn được, ai đời lại bám theo cái giống chó cái đo”ù – Một anh tân binh Mỹ lai phán. Rồi một anh mới trốn tù vì tội hiếp dâm từ Ba lê sang, chưa có nghề ngỗng chi đăng lính bậy kiếm cơm chim gái, uốn éo giọng sang cả của thủ đô Ánh Sáng:”Hừm, tel père, tel fils!6”  (Tiếng xấu đồn nhanh mà lại!)

Các đấng mày râu chửi rủa như thế, không bằng chút bẻo mấy bà mấy cô, nhất là các tiểu thư, mấy mệnh phụ, tức chết đi được, chẳng khác gì ai đưa cứt ngựa lỏng trát vào mặt hoa da phấn của mình vậy.

 

Thời nội chiến Nam – Bắc ở Mỹ7, người ta thắc mắc không hiểu tại sao tướng Grant, người mà tổng thống Lincoln lúc đầu chỉ dám bổ nhiệm làm trung đoàn trưởng đoàn quân tình nguyện ô hợp; và sau đó, y như rằng ông tướng cứ bị thua hoặc huề, ấy vậy mà chẳng bao lâu sau khi tướng Grant được cử thay thế tướng Halleck (ông này đánh đấm còn tệ gấp bội) chỉ huy mặt trận miền Tây Nam, thì tướng Grant đánh trận nào thắng trận đó. Quân đội miền Bắc khống chế được con sông huyết mạch Mississippi của cả miền Nam chạy qua Louisiana, với những trận đột kích bất ngờ và chính xác đoàn tàu chiến của miền Nam. Thủy chiến đã thế, bộ chiến quân Nam lại càng thua đậm: Louisiana bị Bắc quân thanh toán cái rụp, và chẳng bao lâu phòng tuyến Vicksburg bị bẻ gãy, rồi chỉ mấy ngày sau căn cứ phòng thủ quan yếu bậc nhất là Gettysburg cũng bị rơi vào tay Bắc quân.

Người ta đồn là công của tướng Grant thì ít mà công của một vị tướng tham mưu trẻ tuổi Sherman thì nhiều.

 

Ðức tổng giám mục Harry thời cai quản giáo phận N , dĩ nhiên ngài có quyền được ở trong toà tổng giám mục nguy nga tráng lệ cho cân xứng với cái thành phố to lớn, giàu có, bề thế nhất thế giới ấy, ấy vậy mà ngài, ngoài trừ những lúc cần thiết, chẳng mấy khi ở đó. Ngài thích ở trong một căn nhà nhỏ lợp ngói đá xám rêu phong xây9 năm trước cuộc nội chiến, (có cả niên hiệu bằng tiếng Pháp L’année 1836) , trong khu Da đen lụp xụp, thời trước là nơi ăn chơi dầy dẫy những saloon. Có kẻ cho là ngài có khuynh hướng theo phe xã hội, hay nói huỵch toẹt ra là thân cộng; mà ở nước Mỹ vào thập niên 50 úy kị mọi cái gì dính dáng tới bọn Ðỏ. Thân cộng là đồng nghĩa với phản quốc, là muốn đưa nước Mỹ, lúc đó nền kinh tế đang đạt đến độ cực thịnh, mà tổ tiên họ đã phải nằm gai nếm mật cả bốn thế kỷ mới tạo nên được, trở lại cái thời vất vả xa xưa. Những đứa như thế cần phải triệt, dĩ nhiên triệt theo kiểu Mỹ.

Dưới con mắt của ông trùm cảnh sát liên bang FBI, thì ngài tổng giám mục là một đối tượng có khuynh hướng nguy hiểm, mà đối tượng này lại ở trong một vị thế đáng gờm, thì cần phải tìm hiểu điều tra kỹ lưỡng, thật kỹ lưỡng trước khi ra tay.

Ngoài ra người ta thấy có một cái gì đó không ăn khớp trong lối sống của tổng giám mục Harry: Ngài tổng giám mục, tuy thường ở trong căn nhà xập xệ giữa cái xóm da đen nghèo khó, con mồi của chủ nghĩa Cộng sản, mà ngài lại vẫn đi Mercedes có tài xế bận lễ phục xanh, nón kết, găng tay trắng đàng hoàng. “Của chùa không đi cũng uổng!” – Ngài đã từng phán như thế khi mấy ký giả lắm chuyện hỏi móc về chiếc xe de luxe của ngài.

Chẳng lẽ ngài lại thích thú điền viên? Nói thế cũng không đúng, vì ngôi nhà chỗ ngài hay ở chỉ có một miếng vườn nhỏ đủ cho bà bõ già, người Da đen, mà ngài quý như mẹ, phơi phong quần áo, và trồng một liếp cà chua mỗi khi Hạ về, trong khi ngài chỉ cần khoát tay một cái, mấy tay ba trợn Ái Nhĩ Lan mà lúc nào cũng ngoan đạo, dâng ngay cho ngài một cơ ngơi còn khang trang gấp ngàn lần, ở Sugar Hill, nhìn xuống công viên thơ mộng Central Park.

Ngài giám đốc cảnh sát liên bang không hiểu tại sao một đối tượng không giống ai như thế mà trong tủ hồ sơ của FBI chẳng có lấy một dòng về hành trạng của ông ta. Chắc ngài giám đốc FBI tiền nhiệm lại cả tin vào các giáo sĩ Thiên chúa giáo, nhất là hàng giáo phẩm Công giáo. Cớm gộc Edgar Hoover thì không như thế. Phải điều tra, phải theo dõi, dù đối tượng là tổng thống Huê Kỳ đi nữa. Mà không có phương pháp theo dõi nào hiệu quả cho bằng nghe lén. Gì chứ nghe lén là nghề ruột của FBI.

 

Hồ Sơ Tối Mật I

(Các chi tiết về thời gian, quân số, đơn vị… của người thi hành)

Chúng tôi đã hoàn thành công tác 46WY.

Chúng tôi đã thanh sát nơi cư ngụ của đối tượng F. Harry; và ghi nhận là có các hiện vật sau đây đáng lưu ý:

  1. Một chiếc rương cũ, loại rương các thuỷ thủ thế kỷ 19 hay dùng, trong đó có đựng một bộ đồ quân phục sĩ quan quân đội phe miền Nam còn khá mới tuy một đôi chỗ còn lấm lem bùn; trên cầu vai có quân hàm trung tá. Và lớp dưới là một áo chẽn đỏ, một chiếc váy đen dài, gấu viền kim tuyến, loại y phục mà những người đàn bà hát rong hay mặc, cùng một tấm khăn bịt đầu hoa văn gồm những đường màu đỏ xanh và đen, dệt theo đường dệt hình thoi, trong khăn có gói một trái cầu pha lê, có lẽ là dụng cụ chiêm tinh bói toán của dân hát rong. (Hình đính kèm)
  2. Trên tường thấy có treo trang trọng một bức hình của tướng William T. Sherman, chụp chung với một người đàn bà da đen đang ôm hôn ông, có lẽ trong ngày quân Bắc tiến vào Louisiana. Cũng cần lưu ý là chỉ thấy mặt của tướng Sherman, còn bà da đen kia chúng tôi chỉ thấy lưng và mông. Lưng nhỏ và ngắn, nhưng mông bà thuộc loại lớn, loại mông đặc biệt của những đàn bà da đen làm lụng trong các đồn điền.

Trên bức tường phía trước bàn ăn, cũng là bàn viết của đối tượng Harry, chúng tôi thấy 23 (hai mươi ba)  phác thảo lớn bé, giấy đã ngả vàng, có hơi lem luốc và nhoè đôi chỗ, nhưng những nét phác thảo những cái mông của các người đàn bà da đen trong các tư thế đang cúi xuống làm việc: giặt quần áo, lựa lá thuốc lá, cho ngựa ăn, múc nước, hái bông vải… vẫn còn rõ.

Và đặc biệt có một bức tranh màu nước vẽ một người đàn bà da đen trần truồng100%, thân hình thon đẹp thường thấy nơi các vũ nữ, nằm trong bãi hoa anh túc, nhưng chỉ thấy mông là nhiều, trên mông có những vệt màu đỏ tươi, không biết đó là hoa anh túc vẽ theo kiểu ấn tượng hay là máu; dưới có đề chữ Wandering Black Eva8 và có chữ ký Adam S. . Bức này treo sát bức ảnh chụp tướng Sherman. Tất cả đều lộng kiếng, khung làm bằng loại gỗ trắc bá đỏ. (Các ảnh chụp đính kèm.)

 

Ký tên  và  đóng dấu

 

Hồ Sơ Tối Mật II

(Các chi tiết về thời gian, quân số, đơn vị… của người thi hành)

Băng 1:

– Thưa ngài Harry, sao ngài không dùng xúp đi kẻo nguội? Xúp cá chép, nguội, tanh lắm.

– Cảm ơn vú Rose9, tôi đang bận.

– Ôi, ngài lúc nào mà chẳng bận. Bận nhìn mông ra đường chứ gì!?

– Ừ, tôi thích nhìn ra đường mãi mà không chán, nhìn những người đàn bà Da đen. Vú biết không: Nước Mỹ phải đổ nhiều máu xương mới có được con người ngúng ngẩy hạnh phúc đến như thế; thiệt như đàn vịt bầu vừa mới tắm ao lên. Vú xem, bữa nay cái bà ở số 111, hôm nay lại còn chơi luôn chiếc váy hoa đỏ. Ðang mùa Ðông mà cứ ngỡ mùa Hạ tới nơi.

– Thì sinh thời bà cố10 Romana nói là ở Louisiana và các bang miền Nam, vào tháng này đi hát rong hoa anh túc nở khắp núi rừng mà lại.

– Dám mấy bà này tổ tiên ông bà là nô lệ dưới đó, có kẻ sợ quá trốn lên đây trước, nhưng đa số chạy lên đây cho chắc ăn, dù cả sau ngày có lệnh bãi bỏ chế độ nô lệ. Họ ăn mặc kiểu như có cái chi đó trong máu thôi thúc họ.

– Lại có chuyện lạ đó nữa sao?

– Này vú, vú nên nhớ là vú đang nói chuyện với tổng giám mục thành phố N và là người thông minh nhất nước Mỹ đó nghe chưa!

– Thôi, mời ngài tổng giám mục dùng xúp cá chép đi kẻo nguội.

– Rột… Rột… Chà, tiêu cay đã quá!

 

Băng 2:

– Kính chào ngài.

– Không dám. Thế… anh từ nửa trái địa cầu bên kia tới đây thăm kẻ hèn này có chuyện gì vậy?

– Dạ, ngài tổng giám mục dạy quá lời. Thực sự con chỉ là một công dân bình thường của nước Ðại Nhiệt, nhưng hiện tại con đang ở N này.

– Vậy anh làm cái gì ở thành phố này?

– Dạ, con chỉ bán sâm.

– Thế… anh đi đến đây nhằm giới thiệu sâm củ với tôi?

– Nói thiệt… con là một người Ðại Nhiệt… yêu nước.

(Có tiếng ngáp)

– Vậy anh là Cộng sản… ?

– Dạ…

– Cộng sản anh nào cũng như anh nấy, từ Ðông sang Tây, đều bô bô xưng mình là kẻ yêu nước. (Giọng hơi lớn)

– Dạ, chúng con là những kẻ yêu nước thực sự, như…

– …như bác của các anh, trước đây còn có cái tên Người Yêu Nước.

– Dạ, đúng vậy! Chủ tịch Kim Nhật, alias Người Yêu Nước, có lời hỏi thăm sức khỏe ngài tổng giám mục. Chủ tịch đánh giá cao tấm lòng hướng về giai cấp vô sản của ngài.

– Ủa, anh nói cái gì vậy? (có tiếng hắt xì) – Tôi có quen biết gì bác của anh đâu mà bác anh lại hỏi thăm; và tôi có làm gì đâu mà bác anh đánh giá cao với lại đánh giá thấp?

– Nội chuyện ngài không ở trong tư dinh tổng giám mục mà lại về sống với giai cấp lao động ở khu này là một bằng chứng hùng hồn tấm lòng mang tính vô sản của ngài, làm cho…

– Giai cấp lao động, vô sản!? Dân Da đen ở cái khu Harlem này đa số lười chảy thây. Lười thì vô sản thì cũng đáng. Họ cứ nghĩ được giải phóng khỏi ách nô lệ có nghĩa là bước vào thiên đàng cỗ bàn dọn sẵn. Nhưng dân Da đen ở đây dẫu gì cũng còn sung sướng chán, sướng gấp mấy lần cái dân trong cái xứ gọi là thiên đàng xã hội chủ nghĩa Liên Xô… Rồi cái chuyện vì sao tôi ở đây… là chuyện tôi chẳng cần nói với anh. Tại sao cái Nhà nước Cộng sản các anh cứ hay thọc mũi vào cuộc đời người khác thế nhỉ?

(Có tiếng nuốt nước bọt và tiếng phì phò.)

– Ngài nghĩ thế nào về cuộc chiến Ðại Nhiệt.

– Anh muốn gì? Muốn tôi kết án phe miền Nam Ðại Nhiệt, tuyên bố ủng hộ phe miền Bắc trước báo chí thế giới chắc! Không bao giờ!

– Tùy ngài… nhưng…  không biết cái khẩu hiệu Bu Bu Woa của ngài có nghĩa là gì đấy ạ?

– Kiểu này là Ðảng của anh giao cho anh phải hỏi cho hết, cho đúng chỉ tiêu, đúng không?

– ……

– Còn lâu… Hồi làm tuyên úy  ở mặt trận Bá Linh, tôi đã thấy cái bộ mặt thú dữ của bọn Hồng quân Cộng sản như các anh ra sao rồi.

– Ðéo mẹ, cái thứ ba đời hủ hoá phản động. (Câu này lầm bầm bằng tiếng Ðại Nhiệt.)

(Có tiếng mở cửa, tiếng chân lệt xệt đi vào)

– Ngài nói hôm nay ngài còn tính đi thăm mộ bà cố?

– Ðúng vậy, nhưng tiện thể vú đưa  cái anh này ra cửa dùm tôi. Cảm ơn anh dã đến vấn an tôi. Tôi đang bận.

– Cái giống con cháu bọn Tú Bà đĩ rạc mà cứ to họng! Rồi sẽ biết tay chúng ông! (Lầm bầm bằng tiếng Ðại Nhiệt)

– Xin chào ông. Chúc ông đi bằng an. (Tiếng bà già)

(Yên lặng khoảng hai phút.) (Tiếng của đối tượng Harry. )

– Bực hết sức! Mấy trự trong đoàn đại biểu Xô Viết ở Liên Hiệp Quốc lại nói với tôi anh ta là nhân viên cao cấp của chính phủ Bắc Ðại Nhiệt. Tôi tiếp để xem coi thử… Rõ ràng là anh ta muốn móc nối tôi. Một lời tuyên bố của tôi chỉ cần nửa nạc nửa mỡ cũng làm cho cán cân quân sự lệch hẳn về phe Cộng sản… Tuy sợ ông cớm gộc Edgar Hoover  làm bể mánh, tôi cũng cứ liều, biết đâu tôi lại có cơ hội giúp cho đôi bên ngồi vào bàn thương thuyết. Là người Mỹ, tôi biết cái cảnh nội chiến nó bi thương, phi lý đến kinh hoàng như thế nào, vậy mà gặp cái mặt anh ta là tôi lại nổi máu cao bồi ngay. Giá mà tôi mềm dẻo một chút… Chậc, mà nghĩ lại, dù mềm dẻo cách mấy đi nữa cũng chẳng đi tới đâu! Chúng sai anh ta đến cũng chỉ để muốn lợi dụng tôi thôi…

Nói cho cùng cuộc chiến tuy chỉ xảy ra ở bán đảo Ðại Nhiệt, nhưng là một thế cờ đã được Cộng sản quốc tế hoạch địch. Bác Kim Nhật của chúng nó chỉ là một kẻ thi hành; hoặc ông ấy chỉ là một thằng mù mà dám cầm dao sắc. Ông chỉ mới đọc mấy trang luận cương về vấn đề giải phóng các thuộc địa của gã xốc nổi Lênin mà đã cảm động quá chừng chừng, rồi ôm ngay cả một hệ thống triết học mà chính lão chắc cũng chẳng biết rõ hơn một thằng cu xứ Củ Sâm bao nhiêu11, bắt cả một dân tộc phải theo. Thiệt là gan cùng mình! Gan thì cũng chẳng gan gì, dân chết chứ lão có chết đâu!  Hoặc giả… cái lão nhà quê, mà bọn họ một bác hai bác đó, bị kẹt mất rồi! Dù có hối cũng không kịp. Kiểu “Phóng lao thì phải theo lao.” Gì mà kì cục vậy!? Quay lại chẳng có gì xấu hổ cả, nhất là trong những chuyện liên hệ tới vận mệnh cả một dân tộc. Ôi, cái đức khiêm nhường quan trọng quá sức tưởng tượng mà người ta nào có để ý! Biết bao nhiêu tang thương đổ nát cũng vì người ta không quan tâm bồi đắp đức tính đó. Cái lão Kim Nhật ấy, nghe nói ông ta là con của một nhà Nho, thông thạo chữ Hán, mà chẳng lẽ không biết tới cái đức cha Khiêm của Khổng Tử, cái chữ Nhu, chữ Thối Tàng của Lão Tử. Hay là ông ta chỉ biết lỏm bỏm đôi câu mà đã khoe mẽ có kỹ thuật, hoặc là lão chỉ là một “học giả gáy sách” .

Thiệt tội cho cái đất nước nhỏ bé Ðại Nhiệt! Nghe giám mục K. , hồi học ở Rôma với tôi, nói là lịch sử thành văn của nước ông chỉ có trên dưới ngàn năm, mà khi thì bị nô lệ ngoại bang khi thì nội chiến, khi thì loạn này loạn nọ, thanh bình chẳng được bao năm… Cũng thiệt thương cho tổng thống Phác Chính hôm từ bên nhà dòng Maryhill qua đây thăm tôi. Mặt ông ta lúc nào cũng cứ trầm ngâm… Khi nhìn lên mấy bức tranh, chẳng nói gì, đã thế khi nhìn lên câu châm ngôn lạ đời của tôi ông cũng chẳng hỏi han chi. Chắc ông ấy có được cái lễ nghĩa của dân tộc Ðại Nhiệt chính thống cộng thêm cái savoir-vivre12của xứ Pháp. Một sự hài hoà tuyệt đẹp.

Mấy tay tổ phương Ðông là những kẻ đáng gờm. (Yên lặng khoảng 30 giây).

Mà không biết anh em ông Phác Chính làm gì bển mà để cho mấy tu sĩ đạo Lá Bối và các bổn đạo của họ biểu tình hà rầm. Ôi, mấy vị tu hành, kể cả tôi, chuyện đạo thì hay, chuyện đời thường thì ngờ nghệch như con nít, ấy vậy thiện nam tín nữ lại thích nghe lời các vị ấy; làm như hễ tu hành là thông biết mọi sự, kể cả chuyện trần gian!

 

Băng 3:

–  Vú Rose ơi!

–  Ngài cần gì,  thưa ngài?

–  Có cái này hay lắm. Thư của tổng thống Phác Chính của nước Nam Ðại Nhiệt mới gởi sang.

– Có phải cái ông mủm mỉm dễ thương người Ðại Nhiệt hồi…

– Ừ, đúng rồi.

– Chà, nhìn cái tướng mủm mỉm hiền lành của ổng hồi ấy thì cũng đủ biết ngày xưa nhỏng nhẻo mẹ phải biết! Mà ngài đọc thư cho vú nghe với.

– Hm…chuyện riêng tư… nhưng, thôi, đọc cho vú nghe cũng chẳng sao!

Trọng kính đức cha13,

Kính mong đức cha vẫn bình an… Thật là may mắn cho con được một người cha linh hồn như đức cha để mà giải bày nỗi lòng.

Nước con đang độ rối ren quá. Vừa mới lo xong vụ Bình Giang, Hoà Hiếu, thì lại đến đạo Lá Bối.

Trong một số trường hợp, vì những xử sự thiếu khôn ngoan do chính con; hoặc từ phía chính phủ, từ chính quyền các cấp đối với một số nhóm, đối với một vài chùa chiền của giáo hội Lá Bối; và đôi khi cũng vì những cái nhìn đầy thiên kiến mang tính bè phái của chính họ; cộng với chuyện bọn Cộng sản và các thế lực bên ngoài lợi dụng cơ hội tốt giật dây; người của đạo Lá Bối đang ngấm ngầm toan tính những cuộc biểu tình lớn. Con e rằng tình hình sắp bùng nổ lớn. Dám máu lại đổ. Nhiều lúc con cứ nghĩ quẩn là mình có tội với lịch sử dân tộc mình, khi mình làm tổng thống nước Nam Ðại Nhiệt mà lại có đạo. Nhưng con nghĩ dù con là tín đồ Lá Bối đi nữa thì bọn Cộng sản và thế lực bên  ngoài vẫn tìm cách này cách khác xách động đám đông vốn còn ấu trỉ mê muội về đường chính trị chống lại chính phủ và con, những người bao giờ cũng kiên quyết không để cho con dân nước mình sa vào hố diệt vong của Cộng sản.

Và giả sử dù con có độc tài thối nát, ngả theo Kitô giáo, như các thế lực đối lập nói đi nữa, thì cũng không thể tai hại cho bằng đất nước chúng con bao gồm con dân theo đạo Lá Bối, đạo Kitô… lại bị cai trị bởi đảng Cộng sản. Chẳng lẽ các vị lãnh đạo tinh thần của đạo Lá Bối không biết đến cái  nguyên tắc “Khi phải chọn giữa hai cái xấu, thì nên chọn cái ít xấu hơn.” Hay là các vị ấy không rành chuyện chính trị mà lại đi làm việc chính trị trong một tình thế mỏng dòn như lúc này? “Ðập chuột coi chừng bể chén kiểu!” – Nước con  có câu tục ngữ như thế. Và bọn Cộng sản và các thế lực bên ngoài thế nào mà chẳng lợi dụng cái điểm tế nhị nhất nơi người Ðại Nhiệt chúng con, đó là vấn đề tôn giáo!

Lại còn thêm vụ nhà văn uy tín số một của Ðại Nhiệt đương thời tên là Lý Nhất vừa tự tử. Ông và các đồng chí của đảng ông ta bị nghi ngờ là có tham gia vào một âm mưu lật đổ một chính phủ hợp hiến, hợp pháp mà con là thủ lãnh, thì dựa trên luật pháp, ông ta phải chịu điều tra xét xử, phải trái cho rõ ràng, nếu không thì còn gì là kỷ cương của một nước, một nước còn trong thời kỳ dựng nước với muôn vàn khó khăn. Nhưng trong chính phủ đã bàn bạc với nhau: Thôi, trong hai cái xấu thì nên chọn cái ít xấu hơn, nhất là vào lúc này.

Con đã ra lệnh không bắt giam để điều tra ông ta. Ðành chịu mang tiếng là một chính phủ không có kỷ cương, và phải chịu những hậu quả của một cái tai tiếng như thế, còn hơn là để cho bọn Cộng sản lợi dụng tuyên truyền là chúng con đàn áp giới cầm bút. Và báo chí quốc tế lại hay nhạy cảm cái vụ này, (vì họ cũng cầm bút mà lại!) , và cộng vào chuyện ông ta cũng là một người theo đạo Lá Bối, thì hậu quả sẽ khôn lường, vậy mà ông ta vẫn, và  lựa vào cái thời điểm này, mà đi tự tử, và để lại một lá thư tuyệt mệnh ngắn: “Ðời tôi để lịch sử xử. Tôi không chịu để ai xét xử tôi cả. Sự bắt bớ và sự xử tội các phần tử đối lập quốc gia là một tội nặng nề sẽ làm cho nước mất về tay Cộng sản. Tôi chống đối sự đó và tự huỷ mình như nhà sư Quảng Ðại tự thiêu để cảnh cáo những người chà đạp mọi thứ tự do.”  Ðức cha cũng thấy đó: Lời lẽ thiệt chẳng khác gì khẩu khí của nhân vật Tom Sawyer13 trong truyện của Mark Twain!

Và đức cha cũng thấy: Chỉ cần dùng những quy tắc của luận lý học sơ đẳng ra mà phân tích, thì thấy những lời di chúc trên kia của ông Lý Nhất đầy mâu thuẫn, luẩn quẩn, nặng chữ nghĩa văn hoa, mang tính cách khoả lấp. Mâu thuẫn ở chỗ: Ðã lo mất nước vào tay Cộng sản, mà lại thực thi một hành vi chỉ mang lại thêm sự chia rẽ, chia rẽ trong một thời điểm ngặt nghèo như thế. Có Thiên thời, địa lợi để xây dựng nước, nhưng cũng có loại Thiên thời, địa lợi để hại nước. Và giòng nước lũ sắp phá vỡ đê nhận chìm mọi thứ, mà cứ lo cãi nhau chuyện chiếu trên chiếu dưới, chuyện chuông thanh chuông rè. Chắn được giòng nước lũ, rồi cãi sau, chứ đâu có muộn.

Rồi, tại sao ông Lý Nhất lại còn vin vào hành vi tự sát của Thích Quảng Ðại để thi hành một hành vi tự sát mang tính chính trị, hay nói cách khác, ông ta là một nhà chính trị mà chẳng xác định rõ được cái raison d’être14 cho chính hành vi chính trị của mình, như một người làm chính trị thứ thiệt, chưa nói là như một nhà chính trị có ý định xây dựng nền dân chủ. Qua hành vi này, ông ta chứng tỏ ông chẳng xứng đáng để làm chính trị. (Lý chứng này sẽ được bổ túc ở phần sau lá thư.)

Hay là ông vụng tính: Ông không ngờ chính phủ đã đi một nước cờ cao là không bắt ông, trong khi ông cứ tưởng ông sẽ bị bắt và ông nhân đó có cơ hội để tố cáo chính phủ mà ông không ưa đã đàn áp ông, một nhà văn tăm tiếng; chính phủ ấy chỉ đem ông ra xét xử theo những nguyên tắc của một nước dựa trên pháp trị, mà qua đó, nếu ông ta cho là ông bị xử sai, ông có quyền kháng án, hoặc nếu cần, kháng án đến cả toà án quốc tế? Trước một viễn tượng quang minh chính đại như thế, thấy không ổn, nên ông tự tử trước khi bị xét xử để gỡ gạc một chút thanh danh?

Hay là  ông tự tử vì những bế tắc, những động cơ nào khác, những động cơ nhiều lúc chẳng cao trọng gì?

Ông ấy, cũng như phe cánh của ông gồm các nhà văn nhà báo và những người có hoạt động chính trị tài tử di cư từ miền Bắc vào, họ cứ nghĩ mình là đáng trọng, đáng được sung vào các chức vụ trong chính phủ.

“I do my best.” , “I’ll try.”15 là những câu thật khiêm tốn mà người Mỹ hay nói. Giá mà ông ta vẫn cứ khiêm tốn làm cái công việc ông ta có khả năng nhất là văn học, thì lợi ích cho dân tộc chúng con biết mấy! Và cho dù ông ấy có khả năng trị nước thực sự đi nữa mà chúng con sơ sót không mời, thì tại sao ông ta không xuất xử hành tàng như bao vị nho sĩ tiền nhân của chúng con, mà lại hậm hực, rồi làm cái điều tai hại cho cả dân tộc đến như vậy. Ở nước Mỹ của đức cha, chẳng thấy vị tổng thống nào mời Mark Twain, hay Walt Whitman chẳng hạn, hay những văn sĩ hiện đại tiếng tăm lẫy lừng như Ernest Hemingway, Willam Faulkner ra làm việc trong chính phủ; và dù có mời, thì lại bị các ông ấy cười cho.

Nhưng chúng con chẳng sơ sót khi quyết định không mời ông ấy tham gia chính phủ đâu, vì ngoài lý do vừa nêu, còn có những lý do quan trọng mang tính quyết định sau đây:

Trước hết, chắc đức cha cũng đã biết rõ lịch sử hiện đại của nước Ðại Nhiệt. Ông Lý Nhất mười lăm năm trước đây đã tham gia, làm bộ trưởng ngoại giao, trong chính phủ liên hiệp kháng chiến do ông Kim Nhật, một đảng viên Cộng sản quốc tế kỳ cựu, thành lập và lãnh đạo. Một người có kiến thức chính trị trung bình cũng phải nhận ra rằng đó chẳng qua chỉ là một thế cờ ảo, một lối đánh lừa nhân dân trong nước cũng như quốc tế. Vậy mà ông Lý Nhất vẫn cứ tham gia. Có phải vì ông ta ấu trĩ trong chính trị, hay là vì lý do nào khác?

(Ở trong nước Mỹ của đức cha, nơi mà đã có một cơ chế dân chủ pháp trị rõ ràng, vững chắc, thế mà chẳng có ông tổng thống đảng Cộng hoà nào lại đi chọn một người đảng Dân chủ vào nắm chức vụ quan trọng cả, và ngược lại; huống hồ là nước Nam Ðại Nhiệt đang còn trong thời kỳ phải gọi là thời kỳ dựng nước, đầy tao loạn, với muôn ngàn áp lực trong nước, ngoài nước, làm sao chúng con có thể dùng một kẻ “chiêu hồi” nguy hiểm như ông ấy được?)

Thế rồi, lúc đó, đến một giai đoạn ông Lý Nhất thấy rằng ông Kim Nhật không còn cần ông và các chính khách khác không cùng đảng phái với đảng Cộng sản, (lúc ấy vẫn lật luờng dưới danh hiệu là đảng Lao động), ông Lý Nhất lại gởi một lá đơn từ chức, (xin đức cha đọc bản chụp của tài liệu đó bằng tiếng Ðại Nhiệt đính kèm và bản dịch) , mà lời lẽ rõ ràng là của một kẻ theo thời, và khi không còn thời để theo, thì lại chơi nước cờ trội: Trước khi rút lui, ông Lý Nhất đánh tiếng là ông rút lui vì ông ta không đồng chính kiến với ông Kim Nhật. Trong khi các vị ngự sử và cả các quan lại khác, tiền nhân chúng con, khi thấy các vị thiên tử trở thành hôn quân vô đạo, các cụ khẳng khái điều trần can gián rõ ràng điều một điều hai, dù biết rằng khi làm như thế mình sẽ có nguy cơ bị xử tử.

Nhưng ông Lý Nhất lại viết trong thư như sau:

“Tôi tự xét bất tài bất lực tự không thể đảm đương bộ ngoại giao…” 

Ðúng là một lối khẩu khí hèn nhát trước một bạo chúa, của một kẻ tham sanh uý tử. Ông ta biết mình kém khả năng, thế thì tại sao lại tham gia? Một khi đã tham gia mà thấy ông Kim Nhật và phe Cộng sản rắp tâm hại dân hại nước, tại sao ông lại không thẳng thắn vạch ra những điểm sai lầm?

Rồi còn: “Tôi đề nghị ngài chủ tịch kiêm chức bộ trưởng ngoại giao hay một người trung lập nào khác.” 

Chủ-nhân-ông Kim Nhật sắp tống cổ đứa ở Lý Nhất ra khỏi nhà mà Lý Nhất vẫn còn rán bày khôn cho chủ-nhân-ông; hay lại là một lối nói vớt vát danh dự với người đương thời và với hậu thế, mà ông cứ tưởng sẽ mãi mãi tối mắt tôn vinh ông ta?

Rồi lại: “Việc làm của tôi chỉ là một việc tư riêng, không có liên can gì đến sự liên kết của các đảng phái.” 

Vào giữa một thời kỳ sinh tử của một dân tộc mà ông vẫn viện dẫn cái tôi tư riêng của ông – như ông cũng dã viện dẫn một loại “cái tôi tư riêng” khác lớn hơn, đó là đạo pháp, khi ông bắt chước hành động tự thiêu của Thích Quảng Ðại. Ngoài ra, tính chất vuốt đuôi của hành vi tự sát như thế chứng tỏ ông không có tư cách của một người làm chính trị đúng nghĩa – để biện chính cho một hành vi có tầm ảnh hưởng đến quốc gia dân tộc. Ông ta chỉ là một kẻ ích kỷ và là một kẻ giảo hoạt, trốn chạy khỏi cái chết mà vẫn cố khoác cho mình một lớp hào quang.

Ấy là chưa nói đến chuyện khả năng và đường hướng văn chương của ông Lý Nhất và văn đoàn mà ông ta lãnh đạo đang bị những tài năng trẻ, được trang bị bằng những giòng văn chương hiện đại và những luồng tư tưởng mới, đẩy ông và văn đoàn của ông vào bóng tối; một bóng tối cần thiết cho những tiến bộ tất yếu trong tiến trình văn minh hoá con người nói chung, và văn học nói riêng.

Như con đã nói ở trên, chính phủ chúng con đã để cho ông Lý Nhất sống yên ổn, ấy vậy mà ông ta lại đi tự tử; và trước khi chết lại cố ý gởi lại lời di chúc như trên, di chúc ấy là một lời ông ta tuyên bố tự cho mình là ở trên pháp luật, mang tính chất lấn lướt và lợi dụng lòng Nhân của chính phủ, (vào một thời kỳ tao loạn chẳng dễ gì mà thực hiện chữ Nhân,) và lạm dụng lòng kính trọng của chính phủ đối với ông về mặt văn học.

Khốn nỗi người dân thường Ðại Nhiệt lại chuộng những lời khẩu khí có hơi hướm anh hùng như thế, mà không chịu suy nghĩ cho đến ngành đến ngọn; thế mới chết!

Cố vấn chính trị Phác Trung khi đọc bản báo cáo về cái chết của ông Lý Nhất đã thốt lên: “Có những chén thuốc độc của những chính nhân quân tử, nhưng cũng có những chén thuốc độc của những kẻ hết thời. Lịch sử của các triều César nhan nhản những kẻ như thế.”

– Có khát nước không để vú đi lấy nước cho uống!

– Không đâu!!! Và vú có biết không… mới tuần trước đây, có ông giáo sư dạy tiếng Ðại Nhiệt ở đại học Cor. đã nói với tôi là có tin đồn trong giới báo chí bên Ðại Nhiệt là cái ông văn sĩ  Lý Nhất này tự tử vì lý do riêng tư hơn là vì quốc gia đại sự… Không thấy tổng thống Phác Chính viết chuyện ấy trong thư. Có lẽ vì ông ta là con người nghiêm cẩn… Nhưng tại sao với một cái chết quan trọng mà đáng ngờ như thế lại không có một cuộc điều tra vô tư nào cả, không có một sự phân tích chuyên môn nào dựa trên khoa giảo nghiệm, luật học, tâm lý học, phân tâm học, bệnh học?… Thôi, để tôi đọc tiếp thư của tổng thống họ Phác cho vú nghe.

– Ừ! Mà ngài có khát nước không vậy, vì hồi nãy ân món gà nướng Cajun hơi mặn?

– Không đâu mà! …  Thưa đức cha, tại sao ông Lý Nhất và phe cánh của ông coi mạng đồng bào mình rẻ quá vậy, rẻ hơn cái danh, rẻ hơn một bực thang nào đó mà họ cần phải đạt được trong xã hội!?

Con không muốn đánh mất đi một thế hệ trẻ nữa, vì dân tộc chúng con buộc phải chống lại một lý thuyết huyễn hoặc, và tàn bạo, mà những người như ông Lý Nhất, vì lý do này hay lý do khác, vô tình hoặc cố ý, đang làm công việc rước cái lý thuyết kinh khủng đó vào thống trị đất nước chúng con.

Con kết luận là:

Khẩu khí của ông Lý Nhất trước khi tự tử và khẩu khí khi ông ta đệ đơn rút lui khỏi chính phủ liên hiệp kháng chiến của ông Kim Nhật thủa trước, đều dựa trên một căn nguyên: Ông ta trước sau là một người chỉ lo cho cái tôi của mình. Ông ấy dám đưa vận mệnh cả một dân tộc ra để đánh đổi, để kiếm cho mình một hư danh khi sống cũng như sau khi chết.

Ông ta bây giờ đã mồ yên mả đẹp, và được đám đông hời hợt xưng tụng như những anh hùng tiết tháo trong lịch sử của dân tộc chúng con như các cụ Hoằng Diêu, Nguyễn Tri Hướng, Phan Thanh Khê…, nhưng mồ mả của tổ tiên chúng con, của các chiến sĩ nằm xuống vì lý tưởng tự do có được yên không, hay sẽ bị cày xới?

Có tin vui cho đức cha:

Con đã thành lập được một nội các mà một số báo chí bên Âu Mỹ cho là một nội các có tiềm năng hoạt động nhất Ðông Nam Á. Tuy nhiên, con chẳng tin vào thẩm định của các ngài ký giả là bao. Người Ðại Nhiệt chúng con có câu: “Nhà báo nói láo ăn tiền:” (Có tiếng cười). Chúng con chỉ làm hết sức mình.

Và còn có chuyện này khá thú vị con kể cho đức cha nghe luôn là chú Phác Trung, em con, là người hay chữ còn hơn con nhiều vì chú đã từng đậu tiến sĩ ưu hạng ngành cổ ngữ La – Hy, đại học Cam. . Nhân bữa ăn món cháo cá chép Quảng Lộc giống như món xúp cá chép Mississippi đức cha đãi con năm nọ, con nhớ tới đức cha và nhớ luôn cái câu châm ngôn nơi huy hiệu giám mục của đức cha, con bèn kể cho chú ấy nghe và nhân đó hỏi chú ấy câu ấy có nghĩa gì. Chú cho biết chú có đọc được một bản thảo cổ viết tay bằng tiếng La tinh, lưu trử trong thư khố Vatican, do một người thầy ký tàu nô lệ tên là Robert ghi chú về các mẫu ngôn ngữ hệ Nilo – Sahara. Và trong bản thảo có ghi: Bu bu woa  chính là tiếng thét của những người da đen, người bộ lạc Fur (nay hầu như đã bị tuyệt chủng) thét lên khi họ bị bọn lái-nô-lệ da trắng nọc ra giữa trời nắng chang chang, cởi mông họ, và đánh họ bằng roi da dùng để thuần hoá ngựa; tiếng kêu đó có nghĩa là “Cha ơi! Mẹ ơi!” ; có đúng không, thưa đức cha?

Chú ấy nói các chữ khác chú ấy quên, nhưng chữ Bu bu woa chú ấy không thể quên được.

Ðức cha ơi, con không muốn dân tộc chúng con phải kêu “Bu bu woa!” thêm một lần nữa.!

 

Oslo, 25. 07. 0 2.

 

(1) Ðức cha giáo hoàng, Ðức cha thánh cha: Tiếng người Công giáo gọi vị lãnh đạo tối cao đạo Công giáo.

(2) Dominium divinum: Cảnh vực linh thiêng (tiếng La tinh)

(3) Créole: Người Mỹ gốc Pháp, cùng với người Cajun, giống dân Pháp bị trục xuất khỏi Canada, họ nói một thứ phương ngữ pha trộn giữa tiếng Anh và Pháp; có một lối sống khác với các sắc dân khác chung quanh. Vùng định cư: tiểu bang Louisiana của Mỹ (nguyên là lãnh địa của Pháp).

(4) Bản Vulgata: versio vulgata: bản thông dụng, bản dịch toàn bộ Kinh Thánh bởi thánh Hiêrônimô,(  nguyên tên La tinh là Hieronymus)   (345 – 420) , từ tiếng Do thái (Cựu ước) và tiếng Hi lạp (Tân ước) khoảng từ 382 – 402, ra tiếng La tinh, được giáo hội Công giáo dùng mãi tới nửa thế kỷ thứ 20, như là một văn bản thiêng liêng. Thế kỷ 14, 15 xuất hiện những bản dịch của giáo hội Thệ phản (protestant) ra các tiếng địa phương, nhưng bị giáo hội Công giáo phản đối, vì như thế là làm mất tính cách linh thiêng của tiếng La tinh. William Tyndale, năm 1535 bị xử tội chết vì dám cả gan dịch Kinh Thánh ra tiếng Anh./ Còn bản King James, là công trình dịch thuật Kinh Thánh của hội đồng các nhà học giả của Anh, năm 1611, theo chỉ thị của vua James I, được giáo hội Anh giáo chính thức công nhận. Ðây còn là một công trình văn chương kỳ vĩ, dù không phải là tín đồ đạo Ki tô cũng nên đọc.

(5) Saloon: quán rượu (và cũng có thể là nhà thổ) ngày xưa ở Mỹ.

(6) Tel père, tel fils (tiếng Pháp): Cha nào con nấy.

(7) Nội chiến Nam Bắc của Mỹ: (1861 – 1865); nguyên nhân: sự xung đột giữa cơ cấu kinh tế nông nghiệp miền Nam dựa trên sức lao động phần lớn của nô lệ da đen và cơ cấu kinh tế của miến Bắc dựa trên kỷ nghệ và thương mãi, không cần nô lệ; từ đó hai miền có hai quan niệm, hai ý thức hệ khác nhau về con người  nô lệ.

(8) Wandering Black Eva: Evà Da đen rong ruổi.

(9) Vú Rose: Xem phim, đọc sách Mỹ ta thấy các bà vú da đen được tôn trọng và yêu mến gần như mẹ ruột. Các cậu ấm, cô chiêu, nhiều khi đã làm ông lớn bà lớn vẫn thích tâm sự với vú, cả những việc quan trọng, vì các bà vú là những người biết lắng nghe, (và có lẽ chẳng biết gì nhiều để mà nói, mà cãi lại) . Cũng tương tự thế, trong một số trường hợp, giữa  các bà bõ và các linh mục coi xứ.

Ðức cha: Tiếng người Công giáo xưng hô các vị giám mục. / Cha linh hồn: Vị giáo sĩ  (linh mục, giám mục…)  mà các giáo sĩ, giáo dân Công giáo chọn để có tâm sự, cả những điều sâu kín nhất, hầu nhờ vị giáo sĩ đó an ủi, hoặc cho ý kiến.

(10) Bà cố: Người Công giáo hay xưng hô mẹ của một linh mục, giám mục… là bà cố

(11) Kiến thức kém cỏi về chủ nghĩa Cộng sản của các lãnh tụ Cộng sản Việt Nam: xin xem cuốn Ðêm giữa ban ngày của Vũ Thư Hiên. (Các lãnh tụ CS quốc tế khác cũng thế, NVT nhận xét)

(12) Savoir-vivre (tiếng Pháp): Phép xử thế

(13) Tom Sawyer: Nhân vật chính trong tác phẩm The adventures of Tom Sawyer  của Mark Twain (1835 – 1910), văn  sĩ Mỹ. Tính cách, ngôn ngữ của nhân vật Tom Sawyer từa tựa như thằng Vũ, Chương Còm trong các chuyện cùng tên của nhà văn Duyên Anh.

(14) Raison d’être: từ triết học: căn nguyên quyết định sự hiện hữu của một vật, một hành vi…

(15) “I do my best” (tiếng Anh): Tôi xin làm hết sức mình.  “I’ll try” (tiếng Anh): Tôi xin cố gắng

*** Gia phả (để dễ theo dõi truyện) : Robert sinh Spillman (Sherman) ? ;  và Spillman sinh Harry?

 

NTNV 7 – Ải Nam Quan

Nguyễn Văn Thà

https://maivantran.files.wordpress.com/2011/07/ai-nam-quan-original2.jpg?w=816&h=9999

Chớm xuân, sáng sớm chủ nhật, có con chim đậu trước nhà ánh ỏi. Vợ ông Kha đã đi làm giờ phụ trội từ sáng sớm; còn ông, ông vẫn nằm lim dim nghe xuân. Xuân xưa nhiều hơn xuân nay. Có con chim gì đó mấy bữa nay sáng nào cũng réo tình nhân trước cửa: “Chù, chú, chù…chu mán!” ; tiếng chim quấy rầy giấc ngủ nướng của thằng Tám, con út ông. Nó cáu tiết giật tủ lạnh, lấy cà chua, mở cửa sổ, ném, xua: Fuck your mother!  Cái con chim bị  đụ má mày đó hót y như tiếng con chim hôm nọ đã hót khi anh Kha gởi nụ hôn đầu tiên trên mái tóc người tình riêng. Nói là hôm nọ, nhưng cái hôm nọ dễ chừng đã gần mười năm.

 

Ông Kha là một người thích làm thơ, và báo chí Việt ngữ ở nước ngoài đăng thơ ông khá đều. Tôi chỉ đáng vai  đệ tử của ông. Phải đợi đến hôm nhậu lai rai được mấy xâu, tôi mới dám đưa chuyện Tàu ra cà khịa với tôn sư:

“Vậy chớ, ông bô của ông thày muốn ông thày làm thích khách hay sao mà lại đặt cái tên Kha vậy ông thày?”

Ông Kha nhấp thêm một ngụm bia, khà một tiếng thiệt dài:

“Không phải dzậy đâu Tư à! Tui tên cha sanh mẹ đẻ là Kha huyền khà.”

Ông kể thêm: Khi lớn lên thấy cái tên kỳ cục quá bèn hỏi nguyên do, thì được chính ba ông cho biết là, sau chén ruợu rắn hổ mang ngâm chung với toa thuốc bắc của nhà thuốc bắc Tế Thế mà bà má rót cho, ông ba khà một tiếng dài, và, sau giờ phút linh hiển đó thằng cu từ muôn cõi Ta bà đầu thai trong lòng bà bô, như một câu thơ trong bài Sáu Mươi của chính nhà thơ Yên Kha: Khà chưa dứt tiếng hài nhi vào đời.

Cha mẹ cu Khà là con cháu thợ cày thợ cấy từ bao đời, có lẽ từ thời chúa Nguyễn Hoàng vào Nam dựng nghiệp. Có điều tổ tiên ông vốn là dân không được một mảnh đất cắm dùi ở Ðàng Ngoài, nên khi xuôi vào Ðàng Trong, tới Phan Rang thấy đất đai rộng rãi, là mừng rơn. Và họ định cư luôn ở đó. Nhưng Phan Rang không phải là vùng đất màu mỡ, do đó dân làng MỸ THANH, không bao giờ giàu lên nổi; họ chỉ đủ ăn, đủ mặc là cùng. Học hành càng là một chuyện khó, dù rằng thuở trước cũng có mấy anh sinh đồ mạt vận còm cõi kéo lê Tứ Thư, Ngũ Kinh, Bách Gia Chư Tử cho qua ngày đoạn tháng. Nhưng rồi chính cả nơi chốn kinh kỳ đô hội chữ nghĩa thánh hiền cũng phải đến lúc mạt vận, như lời than của một hàn sĩ tài hoa: Cái học nhà Nho đã hỏng rồi. Mười người đi học, chín người thôi, thì cái chữ nghĩa ông đồ ở làng Mỹ Thanh rồi cũng lùi hẳn vào trong những miễu đền tàn phai. Nhưng truyền thống trọng kẻ có chữ vẫn còn nằm trong lòng những người nông dân nghèo khổ. Tuy nhiên đến giai đoạn chữ quốc ngữ đã chiếm ngự hoàn toàn nước Việt, cha mẹ ông Kha vẫn không dám mơ ước một tương lai nào sáng sủa cho thằng út: Thằng Khà chữ nghĩa một bụng. Ông bà lại là những người thích câu vè câu vạn, như bao nhiêu lớp người cực khổ trên trái đất này, cũng như trên mảnh đất nhỏ bé, đìu hiu Mỹ Thanh; ông bà chỉ ước mơ làm sao có ai đó đọc cho mình nghe Lục Vân Tiên, những buổi tối ngơi nghỉ, nhất là những đêm mưa rả rích. Cái ước mơ cỏn con ấy ông bà đặt vào thằng cu Khà. Và may thay có một anh học sanh thông làu quốc ngữ, vốn dân thị tứ thuộc vào loại dở thầy dở thợ, phải lòng một chị trong làng hay quảy củi ra phố bán, bèn tếch gánh giang san về quê vợ, thế là cu Khà thành học sanh đầu tiên  của thày. Người đời hay nói: Con út trút bồ lúa; cha mẹ của út Khà trấu chẳng có dư, làm chi có lúa mà trút; nhưng ông bà đã trút lên cu Khà cái ước mơ chữ nghĩa Lục Vân Tiên của mình; và có lẽ nhờ thế mà chú Khà, chỉ qua mấy mùa học, cho thấy là một học trò thông minh. Chú chẳng những bắt đầu đọc lỏm bỏm được Lục Vân Tiên mà còn viết được số Ả rập và làm được cọng trừ nhân chia, đỡ công mẹ, chân thủ quỷ của làng, khỏi phải bốc hạt bắp để tính sổ sách cho những chi tiêu khao vọng. Khi ông giáo làng đã hết chữ là lúc chú Khà chuẩn bị lấy cái bằng đầu tiên. Và chú đậu. Ghê chưa! Vào lúc này thì chú đọc Lục Vân Tiên không những làu làu mà còn lên cung xuống giọng nghe mùi chẳng thua gì đào kép cải lương.

Lòng tham thì vô đáy, và các đấng sinh thành xứ Việt  quả là những kẻ tham lam nhất trần gian trong việc cho con cái vốn chữ nghĩa. Ðầy một bụng cũng chưa thoả. Chú Khà, sau khi đậu được bằng tiểu học, cái thành tích mà chính thành hoàng của làng, một nho sĩ, cũng phải cúi đầu (chính mẹ chú Khà đã thấy như thế khi họ đem lễ vật ra báo hỉ và tạ lễ ) , chú Khà được cha mẹ cho đi tỉnh học. Chú bụng càng đầy chữ nghĩa, bố mẹ thân xác càng tàn tạ, nhưng trái tim họ vẫn tràn máu đỏ đức tin. Ðúng vậy, cả tới khi chú Kha (lúc này đã tự ý bỏ dấu huyền) ra tỉnh học được năm sáu năm, cha mẹ tuy có phần nhăn nheo gió nắng mà nụ cười xem chừng rạng rỡ hơn xưa. Chữ nghĩa của con là thuốc bổ, là sâm, loại hồng sâm của nhà thuốc bắc Tế Thế cũng không làm gì bằng. Lúc này, tuy đã leo lên được những bậc thang học vấn ngất ngưỡng khác, những dịp nghỉ hè, cậu vẫn nằm võng, chẳng những đọc Lục Vân Tiên, truyện Kiều và các chuyện Tàu khác, cậu còn chơi luôn tuồng Lơ Xít1 của Phú Lang Sa, hoặc ngay cả tuồng Rôméo và Giuliettà của Anh Cát Lợi  mà chú đọc qua bản Pháp ngữ. “Ở đau thì cũng có chiệng đao lòng đức ruộc.”- Bà mẹ chép miệng; hoặc những câu chửi rất hào hứng của cha chú Khà, như: “Mẹ cha, cái anh thày tu đi chi mà chạm dzậy trời!” , khi tới cái đoạn anh thày dòng Phanxicô được ông cha Lôrăng sai đi báo tin về cơ mưu của mình cho Rôméo, mà cứ đi cà rịch cà tàng, trong khi chàng Rôméo nghe tin dữ, đã từ nơi lưu đày, phóng ngựa như bay về với người yêu dấu, với lọ thuốc độc là hành trang duy nhất.

Anh Kha là một người hay chuyện, ấy là lời nhận xét của cô Long hàng xóm thường cứ đứng thấp thoáng sau hàng dậu dâm bụt để nghe anh Kha kể truyện. Những lúc như thế lòng cô nhấp nhánh những vì sao xanh còn hơn khung trời Venezia đêm Giuliettà đợi tình gấp bội. Văn chương chữ nghĩa nó hay ho quá cỡ như vậy mà cớ làm sao lại có cái câu kì cục: Chữ nghĩa văn chương không bằng cái xương cá trích? – Cô Long mỉm cười áy náy. Có những bữa thấy con nhỏ Long cứ lấp ló bên kia, bà Hai, mẹ của anh Kha, phải kêu vào ngồi trên chỏng cạnh bà, dựa lưng vào vách mà nghe vì “Chiện tràng giang đại hải như dzậy thì đứng mỏi chưng chịu sao thấu, coong!” Cô Long sợ run, không dám, đã thế ông Hai còn chêm một câu sấm sét: “Chà, coong Long khong biếc thích nghe tuồng hay lại phải lòng thằng Kha đay!?”

Và cô nhỏ ù té chạy như ma đuổi.

 

Ông Kha phải đi cải tạo thật lâu, vì ông làm lớn, nhưng cũng như khá nhiều ông lớn khác, ông cứ khà khà cho qua chuyện ở một thời thế cần có những thanh Hạp Lư sinh tử sang sông. Cho nên, gặp thời thế, thế thời vào rọ. Cả duộc. Ðỏ hoe con mắt cả mười mấy năm. Cái khí phách mượn của Trần Bình Trọng xem ra cũng nhạt phai dần theo tiếng kẻng xua trâu. Một số người chính khí lắt lay; một số lại cần một cái triết lý hèn để sống; phần ông Kha đã có cái triết lý khà của ông từ ngày dựng thai trong lòng mẹ. Cái triết lý ấy vốn được trạng Bún đời Mạc, mà người đời xưng tụng là người hiền, dạy: “Khôn chết; dại chết; biết sống.”

Ông Kha là người biết sống.

Khi chuyển đến trại AZ được mấy bữa, ông được phân ra toán tự giác. Ông và mấy chục anh khác được sung vào toán chuyên đốn củi cho trại và họ được ở ngay trong các chòi, trên một ngọn đồi trông xuống thung lũng ST. Dĩ nhiên họ có cán bộ quản giáo theo dõi cho đúng bài bản. Nhưng vào lúc ấy chẳng ai dại mà trốn trại sau khi đã có cái vốn mười mấy cuốn lịch, tuy tới lúc đó họ vẫn chẳng biết ngày nào sẽ được thả. Họ được giao chỉ tiêu củi, thoạt đầu, khá nặng, nhưng rồi cũng quen dần và cọng với lối xếp củi mánh mung, thì công việc cũng không đến nỗi nào. Dư giờ họ đi kiếm chai phà, thỉnh thoảng kiếm được trầm lại mang ra chợ gần trại bán. Thường cũng đủ để mua thuốc rê, thuốc lào, hoặc vài xị rượu sắn nhâm nhi; có anh lại chính chị  hơn mua chai dầu xanh Mỹ biếu cán bộ quản giáo. Vào thời gian này họ có thời giờ để nhìn lên trời đôi khi; và khi thong thả, có nghĩa là cứng gân cứng cốt chút đỉnh, thì người ta lại bằt đầu lơ mơ mỹ nữ. Trong những buổi thưa chuyện đêm khuya  các anh ít nói về gà rô ti, vịt quay, bia lon Mỹ… hơn trước, mà bắt đầu tán chuyện đàn bà. Và, đùng một cái, các đấng bề trên xuống phước: Hễ có vợ thăm nuôi thì vợ được ngủ lại và được ngủ chung. Ở các trại khác nghe nói là phải lao động tốt, học tập tốt mới được vào ngủ nhà hạnh phúc, nhưng  nhóm đốn củi vốn đã được ban cho cái tước tự giác, thì mấy cái thứ tốt đó đương nhiên đã qua mặt từ khuya; và cái ân huệ ấy các anh dư sức được hưởng! Cái nhà hạnh phúc chính là mái chòi của các anh. Có anh vợ vượt biên, có anh vợ bỏ, nhưng đa số vẫn còn vợ chắt chiu tháng tháng, quảy mồ hôi nước mắt lên nuôi chồng; nay các anh lại sắp được má ấp môi kề, quả còn sướng gấp trăm lần động phòng thời xuân sắc, tuy người vợ thanh xuân đã tàn phai nhiều theo nghiệt ngã thời gian và tàn nhẫn thế sự áo cơm. Ông Kha tất nhiên là còn vợ, và vợ rất chăm chỉ thương chồng, lo cho chồng từng li từng tí, từ lon gô ruốc sả cho tới chai dầu xanh. Nói là tất nhiên vì vợ ông chính là cô thôn nữ tên Long ngày xưa ấy, cô Long mà những ngày ở tù cảm động tấm lòng chân quê, son sắt của bà, ông Kha đã chêm chữ Châu trước tên Long, thành ra Châu Long. Châu Long ngày xưa nuôi Lưu Bình thi đậu trạng nguyên, còn Châu Long làng Mỹ Thanh lại nuôi ông Kha hơn cả chục năm nay, những mong chồng đậu được cái bằng vĩ đại nhất của một thời mê loạn máu xương, đó là giấy phóng thích. Mười mấy năm đủ xây dựng nên nghiệp lớn ở bất cứ phương trời còm cỏi nào, mà ở nơi xứ sở của vừng trời đông ánh hồng tươi sáng bừng lên này vẫn chưa đủ để đưa chồng bà ra khỏi đầm cát lún mà mấy ổng lấp liếm gọi là những giòng thác chi đó. Mặt trời thiệt phiền! Thác lũ, thác oan!

Khi bà Long nhận được hỉ tín  về cái ơn phước đó của các đấng bề trên từ miệng của người chồng mà ngày xửa ngày xưa mình được diễm phúc kết tóc xe duyên, thì bà đỏ mặt. Và bà vùng vằng đứng dậy đòi về. Và bà về thật. Mấy người bạn cùng chòi khi biết tin động trời đó, giật thột. Có kẻ tán ra tán vào: “Có lẽ tại chị ấy sợ bầu bì, thêm kẹt.”  “Có lẽ chị ấy thẹn, đằng gì chị ấy cũng không phải là dân thành thị, phải không nào?”  Hoặc có anh lại nghiêm trang nghĩ ngợi: “Ðàn bà khi họ không nói, là nói rất nhiều.”  “Ðàn bà là lớp người bị áp chế từ bao nhiêu đời, nên họ có cái nhìn thế sự khác cái bọn đàn ông chúng mình. ”  Riêng anh chàng Khắc, vốn rất hãnh diện với cái nền hướng đạo của mình, lại chỉ cười mỉm. Ông Kha nhìn chằm anh Khắc, cáu sảng:

“Sung sướng gì mà cừi dzậy cha! Dụt cha cái ông thánh của oong đi!”

” …… ”

Và với máu ngoa ngôn thi sĩ có sẳn, ông bồi thêm một màn hàm tiếu diễn nghĩa:

“Tui thấy nơi nụ cừi của oong chạy dài hàng chữ ‘Nếu khoong được đứng trên đồi làm cay thông hùng dzĩ, thì hãi là cay hoa hòng dứi thung lũng.’ của thằng cha hướng đạo nào đó!”

“Câu đó là của tổ hướng đạo Baden Powell, và tôi chỉ nói một lần trong bữa uống trà tán chuyện cổ kim đã lâu mà tới nay anh còn nhớ dữ a! Thôi, chị còn đó! Dịp sau, hỏi khéo chị thử. Có chi mà to tiếng, mất vui.”

Ðêm hôm đó dĩ nhiên ông Kha mần răng mà ngủ cho đặng, nhưng bạn đọc chớ nghĩ bậy bạ cho ông, vì quá nửa đêm, khi anh bạn cùng chòi Ðỗ Khắc đã ngủ khò, ông Kha lay Khắc, thì thào:

“Khắc, Khắc ơi, dạy, tui nói cái nài cho nghe…”

Khắc giọng ngái ngủ:

“Gì vậy anh Kha…a…?”

“Thôi rồi, mấy cái chiệng Lục Dâng Tiêng, Lơ xích, Rôméo đã làm hại tui!”

Những đoạn trích từ một cuốn nhật ký mà công an Cao Lạng tịch thu được trên đường biên giới Việt – Hoa, trong khi đuổi bắt bọn buôn lậu:

Ngày… tháng… năm…

Ðã tắt kinh cả tháng nay. Chắc là có thai mất rồi. Anh Nông lại mới chết. Ở trong B không sao, phục viên về làng lại chết. Chết vì lạc đạn bọn bành trướng. Nhưng cái bụng của mình mà chướng lên thì thà bị lạc đạn còn hơn. Hồi trước, ở nơi cái bản, cái làng này, có thai ngoại hôn hay không thì chẳng có gì quan trọng. Người Tày nhiễm dần những lối tư duy và tập tục của người Kinh, mà người Kinh tính đảng lại càng gắt gao cái chuyện giai gái. Họ dùng cái từ gì nghe mà kinh: Hủ hoá. Chỉ có mẹ mình biết; bà cuống lên, chỉ vì sợ anh cả Hào. Ðàng gì anh ấy cũng đang phấn đấu, phấn đấu đủ thứ. Mẹ nói: Cái miệng người Tày bắt đầu như cái miệng người Kinh, chua như mẻ mất rồi!

Ngày… tháng… năm…

Cái mảnh đất miền Cao Bằng cằn cỗi bao đời, gió chướng quanh năm, chẳng có gì vui. Các Mác nói thế mà đúng: Vật chất quyết định tinh thần. Nghèo thì khó mà vui được. Ở đây chỉ còn chuyện giai gái là vui. Hôm nay mẹ lại lo lắng, than vãn. Cha chỉ biết tìm vui trong thuốc phiện. Nhìn cuộc đời của một người đàn bà như mẹ mà cứ nghĩ lại mình. Cuộc đời như thế có đáng sống không? Chữ nghĩa thiệt phiền. Giá mình đừng có phấn đấu đi học có lẽ mình sẽ đỡ khổ hơn. Chừng này tuổi mà đã bắt đầu cự nự với cuộc đời khá nhiều. Mấy ngày nay, không biết sao vô số chấm hỏi cứ bay lơ lữõng trước mặt mình. Chắc không phải chỉ vì mình suy dinh dưỡng…

Mình nghĩ tới chuyện nạo thai.

Ngày… tháng… năm…

Lâu rồi, nay mới viết nhật ký lại được. Sau vụ nạo thai, mình mệt lã người. Cũng may lúc này cái loa trước ngõ bị hư. Chỉ chút hương hồi trong gió là bạn, và cuốn nhật ký. Trang giấy nhật ký như người bạn tâm tình duy nhất của mình. Coi vậy chữ nghĩa không chỉ làm phiền ta. Nó giải phóng tâm hồn.

Ngày… tháng… năm…

Mấy ngày nay cứ băn khoăn. Mình mới mượn được mấy cuốn tiểu thuyết đồi truỵ của các tác giả Miền Nam của một anh bạn học cùng lớp đi B mới về. Chẳng mang về được xe, đài, chỉ một ba lô toàn sách báo đồi truỵ. Nếu như cái ông gì đó nói: Văn chương phản ánh hiện thực , thì hiện thực đồi truỵ quả là một hiện thực thích thú.

Trong ấy, người ta hay nói tới nắng, mây trắng, và tình yêu giai gái… cả trong chiến tranh, và ít nói tới chuyện đói. Ở đây, từ câu hò câu hát cho đến sách vở cứ ra rả chuyện chiến đấu, đấu tranh, phấn đấu… Sao mà nhiều kẻ thù đến như thế! Nếu cứ lấy thành tựu vật chất mà đo lường những nỗ lực của con người, thì mình thấy cái gọi là chiến thắng, gọi là giải phóng Miền Nam là một sự vô ích. Vô ích đến rợn người.

Và tại sao người ta cứ chê cái chuyện đồi truỵ nhỉ, khi đồi truỵ mang lại hạnh phúc cho con người? Mình yêu cái miền Nam đồi truỵ. Hình như mấy cái xứ nghèo người ta hay nói chuyện đạo đức. Mình có điên không vậy?

Mình đã bắt đầu khoẻ lại. Chắc lại cũng nhờ sức con gái nó lướt đi. Nhưng bao lâu? Phải kiếm cho mình một lối thoát. Ðất nghèo, lại nằm sát biên giới. Lâu lâu bên kia lại bắn qua mấy quả súng lớn. Hậm hực. Nhà nước lại động viên dân làng cứ giữ vững lòng tin vào Ðảng và chính phủ. Bám đất bám làng. Chẳng có gì mà bám. Mấy chục năm chiến tranh chưa đủ sao? Toàn miệng lưỡi của những ông cố đạo đỏ. Và đôi mắt của những con  người tiến bộ cứ nhìn mình như nhìn một con đĩ.

Ngày… tháng… năm

Vào Nam. Làm công nhân nông trường cà phê ST được mấy tháng nay. Việc khá nặng, được cái tự do hơn ngoài Bắc. Nhưng mấy cái loa thì vẫn inh ỏi như ngoài ấy, vì người trong nông trường thì cũng từ bụng những cái loa đó mà chui ra cả. Chỉ khoác lác gượng.

Mình thèm quen người Miền Nam, người có hơi Nguỵ. Nhưng cứ thấy bộ dạng của người ngoài Bắc, nhất là cán bộ công nhân, thì họ lại ái ngại, hoặc có vẻ xem thường.

Mới đọc được mấy cuốn sách đồi truỵ khác của anh chàng Khoan, trưởng đồn công an biên phòng Cam Ranh, anh chàng có mái tóc phiêu bồng, cho mượn. Hắn nói sách hắn tịch thu trong nhà một anh thuyền chài. Cả mấy trăm cuốn. Truyện của họ viết thật tuyệt. Truyện tình của Hoàng Ngọc Tuấn đọc mà nuốt nướng miếng, cứ sợ hết trang. Văn của Minh Ðức Hoài Trinh tình thì quằn quại, mà lại man mác chuyện cổ kim. Lại còn thơ của cái ông Nguyên Sa: táo bạo, tươi tắn mà sâu. Còn Phạm Thiên Thư, thơ càng đọc càng hay; mỗi lần đọc, ý mới lại nãy sinh… Người và lòng người đẹp đến như thế ư? Cớ sao đã có một mâm thức ăn ngon lành như vậy mà lại đổ đi, và cứ nhất định ăn cho được sắn, được bo bo mới chịu? Không thích làm người mà cứ thích hạ mình xuống làm súc vật. Ðối với người Miền Nam, người ngoài Bắc, nhất là mấy anh cán bộ hợm hĩnh, là những sinh vật phiền toái.

Ngày… tháng… năm…

Nghe nói nhà nước sắp đưa một số tù cải tạo về giam gần nông trường. Cái nhà nước này thiệt thâm: Họ tính toán là các công nhân của nông trường sẽ là những người chỉ điểm, những tai mắt cho họ ở vành ngoài? Vả lại họ cũng cần tù về đây làm kinh tế cho họ. Một loại xây dựng kinh tế kinh người! Không biết sao lòng mình lại vui. Lòng người quả là có nhiều ngỏ ngách lạ kỳ.

Ngày… tháng… năm…

Sáng nay, mình đang ngâm chân bên suối trong xanh, mát rượi từ miền cao đổ về; một chút hương rừng; đôi tiếng chim. Không biết sao mình cứ muốn cởi hết áo quần; mình cần vuốt ve của gió, của nước, của thiên nhiên hiền hoà. Thiên nhiên ngày càng lùi xa con người. Và người lại cũng đang xa người. Ðang lơ mơ như thế, nghe có tiếng đàn ông sau lưng, giọng Miền Nam: “Chào cáng bộ!” Mình giật mình. Mình đoán là tù cải tạo được ra tự giác. “Ðôi chưng cô đẹp lám. Cứ y như chưng coong chúa Bặc Tiếc.” Công chúa nào mà chẳng đẹp, nhưng tại sao anh ta lại chỉ nói về đôi chân. Ở miền Bắc người ta chưa dám nói tới cái đẹp của đôi chân. Trong tờ Văn mà mình coi lén hôm qua, có ông thi sĩ lại còn ví đôi chân của người tình hôm ân ái lần đầu tiên là đôi đũa ngọc. Tại sao người ta lại thơ mộng đến như thế được nhỉ?

Mình ngủ không được.

Ngày… tháng… năm…

Mình lại ra bên bờ suối. Mang theo mấy bó rau muống non cải thiện. Tù ai mà chẳng khổ. Tự giác thì cũng thế thôi. Có bà bỏ chồng tù tội, như cái bà Oanh, nghe nói là vợ thiếu tá nguỵ, bây giờ đang cặp với lão bí thư nông trường. “Biếu anh ít rau…” Anh Kha, người tù cải tạo hôm qua, có vẻ cảm động: “Cô thiệt là tử tế. Lần đầu tiên tôi được một người, nhất là một người của nhà nước cho tôi quà như thế này.” (Anh ta nói giọng Bắc!) Mình nghĩ anh còn dè dặt chưa nói ra hết cái ý nghĩ xúc động của anh. Dân ngoài Bắc đã ném đá những người tù như anh.

Mình biếu anh bó rau vì lòng tốt chăng? Hôm qua mình vừa hái rau vừa cười vui trong lòng. Tử tế không làm cho người ta vui kiểu vui lạ thế.

Anh Kha lôi trong túi quần ra tặng mình chai dầu xanh còn nguyên chưa bóc chỉ; sợi chỉ vàng lóng lánh.

“Phải cảnh giác!” – Mình mỉm cười.

Ngày… tháng… năm…

Bôi chút dầu xanh giữa ngực. Nhớ nhân vật nữ Katêrina trong cuốn Dương Liễu của Bưnốp, cũng xức thuốc thơm khi ra ven sông Volga vin cành liễu vọng về mặt trận miền Tây nhớ người yêu. Mình có yêu anh ta không? Hay là đây chỉ là một phản xạ tự nhiên giống như bao nhiêu thú vật, côn trùng, trước con khác giống. Côn trùng, thú vật có hàng triệu loại hương hoa khác nhau, không hẳn là thơm, nếu xét theo khứu giác của loài người. Nhưng khứu giác giữa người Miền Nam và Miền Bắc chẳng khác là bao. Mùi dầu xanh lại làm mình nhớ mùi hương hồi. Mộ của anh Nông nằm trên đồi hồi. Thương anh. Tội nghiệp cho anh. Nhưng mình còn phải sống, còn phải ngửi những làn hương mới. Làn hương nói cho mình biết cuộc đời mỏng manh, ngắn ngủi; chính vì thế cuộc đời mới trỉu nặng đam mê.

Vĩnh biệt một quá khứ thơ mộng ngắn ngủi.

Ðắm say.

Ngõ cụt.

Ngày… tháng… năm…

Cái giọng nói, cái lối nói chuyện, và những điều anh  tù nói, những từ anh dùng làm cho mình cảm thấy bình yên, khác hẳn ngôn từ trong nông trường, lại càng khác hẳn những cái bầu không khí ngôn ngữ ngoài Bắc. Lời anh như bến cảng ôm lấy thuyền lòng mình. Thuyền mong manh.

Ngày… tháng… năm…

Ngôn ngữ anh ấy như cánh gà mẹ ôm ấp lấy mình. Mình ngả vào chiếc nôi ngôn ngữ, mình phó mình trong đôi tay ngôn ngữ anh vì khao khát. Khao khát lời bình yên từ một tấm lòng thành. Mấy anh chàng ở ngoài Bắc cũng như ở trong nông trường này thích và tán mình. Họ cũng buông lời ong bướm đó chứ, nhưng giọng nói của họ sao giống như giọng của những cái loa mà mình thù ghét từ bé. Những cái loa truyền nhiễm. Cái liến láu ấy bao nhiêu năm đã khoét rỗng lòng. Mình mệt mã trống trải, như sau khi đã nôn tháo những thức ăn không thích hợp; và lời anh, lời anh, như một tô cháo đậu xanh, lại là cháo đậu xanh pha chút đường kiếng. Anh ấy không còn trẻ lắm nữa. Và chắc là có vợ rồi. Mình vẫn cứ để cho ngã, kể chi. Hay là mình lại có ảo tưởng. Khốn khổ cho người đàn bà là đôi khi phải ôm lấy ảo tưởng. Ðể vớt lại một chút đời qua.

Ngày… tháng… năm…

Anh ấy hôn mình. Hôn nhẹ sau gáy. Rồi hôn má, hôn môi. Nhớ cái hôm ấy: “Bàng chưng của Man ai mờ hôn được, sống thọ trăm tuổi!” Tại sao lại hôn chân? Mình đã run bắn người lên. Có phải vì bàn chân chính là toàn thân người thu nhỏ, nơi tập trung những huyệt đạo có khả năng thức tỉnh cả cơ thể, như trong lý thuyết châm cứu mà mình có biết qua? Hay là vì anh độc đáo, biết nhìn những chuyện phía dưới. Cả một thế hệ chỉ thích những chuyện sang cả, những chuyện đội đá vá trời mà quên đi những viên sỏi bên đường. Không phải vậy sao?

Ngày… tháng… năm…

Sáng nay trở lại rừng ân ái

Một thoáng hương đưa đủ quên đời

Lửng thửng xuân về lòng thoải mái

Ngọn cỏ giọt sương, trời đất ơi!2

 

Anh Kha sáng nay tặng mình bài thơ. Mấy cái anh Miền Nam thiệt đáo để! Mình cứ nhớ lần đầu tiên anh ấy yêu mình: Hạnh phúc về như muôn vàn mũi kim mềm vi tế. Luồn tới đầu ngón chân thì sung sướng bùng vỡ như thác lũ. Nhưng giòng thác lũ ấy không trôi ra xa mà quay lại ôm, ướp lấy thể xác và linh hồn mình.  “Linh hồn? Tại sao lại duy tâm như thế!” –  Có tiếng cảnh giác trong đầu, như một ngọn dao chặt đứt giòng hoa lạc. “Tổ sư cái thằng Các Mác!” – Mình nghiến răng chửi thầm. Lúc này mình hiểu tại sao người mẹ trong tác phẩm Người Mẹ của Pearl Buck, đã cởi quần trùm đầu tượng thành hoàng khi bà làm chuyện vụng trộm trong miếu.

………….

Ngày… tháng… năm…

Bữa qua bị kẹt họp hành. Hôm nay đi lao động về, sợ anh ấy trông, mình vội ra chổ hẹn. Chẳng thấy anh đâu. Chỉ thấy chiếc búa anh để lại trong lùm cây dùng làm nơi hẹn hò cả mấy tháng nay. Chuyện lạ. Hay là anh ấy bị chuyển trại? Bị ốm? Hoặc là được phóng thích? Tại sao anh không để lại cho mình vài chữ? Không thể như thế được, anh ấy rất cẩn thận, sợ bị lộ chuyện. Chuyện giai gái đã đành, mà chuyện một tên tù cải tạo đi hủ hoá một cán bộ nhà nước, thì hậu quả khó mà lường, nhất là khi mình cho anh biết, cái thằng cha trưởng trại cải tạo cũng đang dê mình. Gớm, làm như hễ là cán bộ thì đương nhiên thuộc vào hàng thần thánh, hay ít nhất cũng là hàng quý tộc! Bắt đầu dân gian lại gọi mấy bố là quý tộc đỏ. Ðúng là cái vòng luẩn quẩn.

Ngày… tháng… năm…

Lâu rồi chẳng viết được giòng nhật ký nào. Cứ đọc đi đọc lại cho đỡ sầu. Thấy chữ nghĩa, lối hành văn của mình bây giờ sao có vẻ giống như tiểu thuyết đồi truỵ,  như ngôn từ của anh ấy. Mình lai căng mất rồi. Nói theo lối nói của nhà văn Nga nào đó: Mình đã đính hôn với ngôn ngữ trái tim. Chàng hoàng tử đã thức công chúa tỉnh giấc trăm năm với nụ hôn ngôn ngữ của chàng.

Ngày… tháng…năm…

Nghĩ tốt về anh ấy. Nghĩ xấu về anh ấy. Ðầu óc mình cứ như cơn bão tràn về. Chán chường mệt mỏi; chẳng thể đi lao động được. Sao mình yếu ớt thế? Hạnh phúc mong manh và ngắn ngủi đến thế sao? Nhịp sống trở về với những tiếng kẻng, những thi đua tất tả. Giả dối cùng khắp. Mình đã vất vả đi kiếm những khoảng trời mới. Thì ra chẳng có khoảng trời nào mới cả. Mẹ nhắn mình trở về quê. Bố chắc cũng chẳng sống bao lâu nữa. Bây giờ, đâu cũng thế thôi!

Ngày… tháng… năm…

Về được mấy hôm thì bố mất. Chẳng buồn bã gì nhiều. Thực ra bố đã chết từ bao nhiêu năm nay rồi. Hôm chôn cất bố, lão chủ tịch xã bảo tháo bảng tuyên dương anh hùng của bố xuống. Người anh hùng của khói súng Bắc Kạn và lão già héo hắt thuốc phiện đang nằm đó, trước mắt người đời, có vẻ đối nghịch, nhưng mình nghĩ khói súng hay khói thuốc phiện thì cũng như nhau thôi! Sa lầy cũng thú vị chứ! Sống thật phiền!

Ngày… tháng… năm…

Tính chôn cất bố xong sẽ vào lại nông trường, nhưng mình lại cảm thấy mỏi mệt quá! Mỏi mệt như những sợi thừng vô hình, chúng cứ trói chặt mình xuống đất. Dù là đất chết. Cuộc sống ở quê nhà nào có gì đổi mới. Vẫn nghèo đói. Chỉ có những người buôn lậu biên giới là còn có thể sống được. Ðất đai ngày càng cằn cỗi, vì khai hoang, vì xói mòn. Khu rừng sau nhà mình, mới đi hai năm đã bị chặt bằng. Dân làng chỉ còn là những bóng ma dật dờ giữa suơng khói đồi trọc. Chỉ còn chút hương hồi vẫn còn thơm. Có một số đàn bà đi buôn chuyến rồi không về. Người ta đồn là có cô như cô Trìu còn vượt qua được tới Hồng Kông

 

Ông Kha là một nhà thơ, cho nên hồn ông thế nào mà chẳng vương đôi chút cổ kính Trung Quốc: Nào là lầu Hoàng Hạc bên sông khói sóng; nào là trăng rụng, quạ kêu Hàn San thành ngoại… cho nên khi hạ qua, thu về, du lịch Trung Hoa đại hạ giá, ông Kha quyết đi một chuyến, vì biết đâu mai đây tuổi già, bệnh hoạn bất tử, phải ngồi xe lăn, thì mộng sông hồ kể như đi đứt.

Khi đổi máy bay ở Luân Ðôn, ông tình cờ gặp lại người bạn tù cũ, ở Mỹ, cũng đang đợi chuyến bay sang Trung Quốc, lại cũng sẽ bay một chuyến với ông. Ông bạn trước đây nguyên là kiến trúc sư làm trưởng ty kiến thiết; khi sang Mỹ vẫn thích nghiên cứu về kiến trúc, đặc biệt kiến trúc Việt Nam xưa. Một số bài báo của ông đăng trên tạp chí Asian Architecture Review rất được chú ý. Chuyến đi này, ngoài chuyện xem Tử Cấm Thành do một kiến trúc sư người Việt bị Trương Phụ đời Minh bắt đưa qua Tàu, vẽ đồ án, ông bạn Nguyên Ðề còn có mục đích tìm tài liệu cũng cố cho một loạt bài viết mới về kiến trúc Việt Nam. Nghe bạn nói thế, ông Kha vỗ đùi khà một tiếng, và ông quyết theo bạn chứ không theo đoàn du lịch nữa. Ði thăm thú Bắc Kinh với một nguời có thẩm quyền về kiến trúc Trung Quốc nói riêng và văn hoá Tàu nói chung như thế, thì không còn gì bằng. Về thắng cảnh Trung Quốc thì đã có nhiều thiên du ký thật thú vị, thơ mộng đăng trên một số báo chí hải ngoại thời gian gần đây, nên tôi nghĩ không cần phải tả ra đây. Chỉ có một chi tiết là sau những ngày ngoạn cảnh Bắc Kinh và vùng phụ cận, ông Ðề hẹn ông Kha tiện thể xuống thăm luôn vùng Hoa Nam; đặc biệt ông muốn đến thăm ải Nam Quan mà ông đã có lần được xem thoáng qua trong loạt phim du lịch các nước ven Thái Bình Dương của đài BBC.

Hai ông đến ải Nam Quan vào một chiều thu. Sương khói lan man. Màu xanh núi rừng biên giới chỉ kéo dài thêm nỗi mênh mông. Ải có dáng của một tráng sĩ, trong một thế tấn vững chải, đang trấn giữ biên cuơng. Và theo kiến trúc sư Nguyên Ðề thì ải này đặc biệt có bốn chân hơi choải, đơn sơ mà bề thế, hài hoà mà mạnh mẽ, vốn là những nét đặc thù của các cổng tam quan Việt Nam được xây từ thế kỷ thứ muời bảy trở về trước. Ở Việt Nam chỉ còn sót lại một vài cái như thế. Ða số những cổng tam quan đời sau có cái dáng hoa hoè, lỏng khỏng của các cổng tam quan Trung Quốc.

Nghe bạn kể thế, ông Kha bèn góp chuyện là ông có quen một nguời Việt gốc Hoa truớc có dạy chữ Hán ở đại học Văn khoa. Ông giảng sư ấy có kể là ông có đọc được một tài liệu trong thư khố đại học Ðài Bắc đề cập đến một nhân vật Việt Nam có tên là Nguyễn Án , chứ không phải Nguyễn An. Sau khi  xây cất xong Tử Cấm Thành, vua nhà Minh đã hỏi ông Nguyễn Án muốn vua ban cho ân huệ gì, ông Án bèn xin vua cho phép được xây cất lại ải Nam Quan lúc ấy đang độ phế tàn; được như thế, ông sẽ được gần cố quốc hơn. Nhà vua cảm khái lòng nhớ nước thương nhà của Nguyễn Án nên đã chuẩn y lời thỉnh cầu, mặc cho Cao Ban, cháu năm đời của tay phong thuỷ Cao Biền, đã khuyên can, vì Cao Ban sợ ông Án sẽ nhân đó trấn yểm huyệt địa đầu, như thế cái mộng mở mang bờ cõi của thiên triều có cơ bị chặn đứng. Nhưng nhà vua lại là một người đã thấm nhuần cái triết lý lè phè tri túc tri chỉ, nên ông Án được rộng tay xây ải.

“Tôi thấy ải có vẻ hơi chúi về phía Việt Nam, kiểu người biệt xứ trông vời cố quốc!” – Ông Kha buột miệng.

Ông Ðề giật mình.

Phải chăng nhà thơ hay có những cái nhìn không giống ai? Hoặc khi nhìn mông về vùng đất núi đồi choài về bên kia nước Việt, nên nhận ra ải có cái dáng nghiêng nghiêng như thế? Hoặc giả ải Nam Quan đang chùng xuống theo lòng ông? Mảnh linh hồn ông sao không chùng cho được khi sát bên kia biên giới là quê hương của người tình tuyệt vời. (Tuyệt vời đến nỗi ông đã thót cả bụng, khi cán bộ quản giáo báo cho biết ngày mai ông được về đoàn tụ với gia đình.)

Khi qua được nước ngoài, ông vẫn cứ tiếc là, sau khi về với vợ, ông đã không trở lại thăm nàng con gái người Tày đó được, vì giấy tờ bảo lãnh đã đâu vào đó; ông phải lên máy bay ngay tuần sau. Nhưng ông cũng đỡ áy náy chút đỉnh, vì sau khi nhận được giấy phóng thích, ông đã kiếm cách chạy ra lùm cây hẹn hò, bỏ lại chiếc búa như một lời từ biệt. Nàng có thể hiểu được một phần lý do của sự chia tay vội vã, nhưng nàng làm sao hiểu được cắc cớ của chuyến đi viễn xứ mù khơi của người tình chung?

Lòng ông Kha ray rứt, giòng thơ ông lai láng tình sầu:

Anh vẫn nghe lòng em đau thiếp

Trăn trở gã tù nhân đốn củi năm xưa

Và ở đây anh cũng thấy hạt mưa

Từ khoé mắt em

Chảy về cửa rừng chiều tím3

“Ở đây” là ở Na Uy, và tuy đang ở trong một nước nơi cực Bắc địa cầu, ông Kha vẫn thấy giòng nước mắt của người tình phương Nam vời vợi tím ngát màu chiều.

Và có lẽ ở đây, cạnh chiếc ải trông vời cố quốc này, giọt lệ trong thi ca của ông đã thực sự nhỏ xuống.

Thực ra nước mắt đã chảy giòng trong lòng ông từ lâu rồi. Khi qua được Na Uy, ông có viết thư ngay về nông trường nhưng chẳng nhận được thư trả lời; lúc có người bạn thân về Việt Nam ông cũng nhờ tìm, nhưng chỉ được biết là cô Chu Man ấy không còn ở nông trường nữa. Biết đâu ông bạn ấy muốn cho ông Kha yên bề gia thất nên đã nói khéo như vậy. Hay nàng đã về lại quê lấy chồng, chăm sóc cha mẹ già? Ông Kha đã có lúc nghĩ ngợi lan man như thế như bất cứ người tình già nào trên thế gian này.

Khi ông Nguyên Ðề và ông Kha đi dạo phố Côn Minh, họ thấy ở đó có một vài cái cao lâu Việt Nam. Ông Kha rủ ông Ðề vào làm một chầu. Vào đến bên trong, họ thấy một đám đàn ông đang đấu khẩu ồn ào bằng tiếng Việt. Nhìn cách ăn mặc, tóc tai biết ngay họ là du khách, và với lối nói năng của họ, thấy bọn họ có lẽ là dân anh chị gốc Little Saigon. “Tụi nó qua đây vừa để hút thuốc phiện người Miêu bán, vừa chơi điếm; hai thứ đó ở đây rẻ rề.” Quả đúng như lời ông Ðề, bàn đằng góc một tay đầu gấu, sau khi đưa nguyên chai Hennessy lên, tu xong, la lớn:

“Ðụ má, đêm qua, tao hên được mấy thằng Chệt dẫn vào một ổ điếm toàn các ả người Tày! Cái nàng sơn nữ của tao có cái hang Pác Pó thơm tho, hai trái đồi Các Mác nây nẩy. Ðã hết sức! Mẹ, nhậu xong  phải lạng lại câu đại bác thêm vài cú nữa trước khi chẩu về Mẽo!” Cả bọn cười hà hà.

“Nghe mà tức ói máu! Muốn dộng cho mấy cái vào mặt!” – Ông Kha bỗng giận sảng.

Chẳng lẽ ông lại muốn dạy cho cái đám trời đánh thánh đâm đó một bài học như cụ Ðặng Tiểu Bình; hay là ông, một cựu tù nhân cải tạo, mà lại theo phe nón cối bênh bác Hồ?

Oslo,  6. 2001

 

(1) Lơ xít: Bi hài kịch Le Cid của Pierre Corneille (1606 – 1684) , Pháp. Trong vở này, chuyện tình giữa hai người yêu Don Rodrigues và tiểu thư Chimène vừa diễm lệ vừa cao thượng, như các cặp Roméo – Julitettà, Lục Vân Tiên – Kiều Nguyệt Nga. Ðặc biệt qua các mẩu đối thoại.

(2) Sáng nay…: Thơ của Nguyễn Văn Thà

(3) Và ở đây…: Thơ của Nguyễn Văn Cường

 

 

NTNV 6 – Tặng Vật Ðầu Mùa

Nguyễn Văn Thà

https://ongvove.files.wordpress.com/2012/02/nguoilinhhysinh.jpg

Cái bí nhiệm của phận người không phải ở chổ con người bị ném vào giữa những hỗn mang cõi thế bụi trần và hổn mang của những vì sao, nhưng ở chổ: Từ căn nhà ngục tù của mỗi kiếp nhân sinh, chúng ta tự tạo cho mình một bản lai diện mục cứng cựa đến độ có thể đẩy lùi hư vô tính nơi mỗi người chúng ta. (André  Malraux / La Condition humaine – Phận Người)1

 

Nguyệt đến với tiền đồn Ða Rưng đã gần năm nay. Cô dã theo đoàn nữ sinh của trường GL (trường cũ của cô) ra đây uỷ lạo các chiến sĩ tiền tuyến vào dịp lễ Giáng sinh; ra rồi ở luôn. Không biết có phải mùi quế rừng Hời mỗi tối trăng thanh bay đầy thinh không đã trói chặt Nguyệt, hay là mùi thuốc súng; hoặc là khi ra tới cái tiền đồi đứng bên bờ sinh tử này, cô bỗng đã tìm được con zéro, vạch tròn đốn ngộ trong bức cuối của bộ tranh thiền tìm trâu, cái vòng hư không làm bàn đạp cho những an lạc chung thân?

Bernard khi biết Nguyệt đang ở ngoài tiền đồn như thế đã viết thư hỏi: “Tại sao? Tại sao?”  Những hình ảnh chiến sự Việt Nam chiếu hằng ngày trên truyền hình, dù chỉ là truyền hình đen trắng, đã làm cho anh chàng kinh hoảng. Anh ta là kẻ đầu tiên dùng cái chữ l’Apocalyse Viêtnamienne2 trên báo chí Pháp; cũng là người, trước đó, đầu tiên phê bình luận án  Le Rôle de la Rhétorique dans la Révolution3 của Nguyệt. Bernard rất chịu  lập luận của cô: Dân Gaulois4 là cái dân đại ngôn; chính cái lối thích dùng chữ đao to búa lớn đã góp phần gây nên những cuộc chiến tranh, những cuộc cách mạng phi nghĩa mà nước Pháp và thế giới phải gánh chịu. Và cái thói giết người không dao bằng miệng lưỡi đó Lenine đã kế thừa một cách xuất sắc mà chẳng mấy ai biết. Rồi cái gã họ Nguyễn cũng ăn phải bã của cái truyền thống tu từ đó, cọng với cái thói ngoa ngoét, lưu manh của những mụ nhà quê xứ Nghệ, đã tạo cho cái ngón tu từ chính trị mang một màu sắc đến độ tổ sư tu từ Aristoste, nếu còn sống cho tới ngày nay, chắc phải ân hận. Nguyệt thù hận với ngôn từ. Triệu triệu cái loa của đạo quân bóng tối đã tràn vào Âu châu thịnh vuợng nhưng chẳng sáng suốt gì cho lắm. Giàu có lâu ngày thì hay bị lừa. Và lắm của thì lại hay thích làm cái việc thương người… bằng miệng. Hắn – cái xã hội Âu Châu phồn thịnh ấy – muốn tỏ ra hào sảng bằng lời bởi vì Hắn không muốn mang tiếng là kẻ trọc phú. Hắn đang no nê, thôi thì la hét, biểu tình vừa cho giản gân cốt vừa cho tiêu mỡ. Và cứ thế Hắn tha hồ vấy máu người bằng những khẩu hiệu.

“Ðả đảo khẩu hiệu!”  “Hỡi những công dân Âu châu, hãy coi chừng lưới nhện của những khẩu hiệu!”  “Xin đừng giết Tự Do bằng những khẩu hiệu tự do!” Nguyệt và một số bạn bè ít ỏi khơi khơi vác những khẩu-hiệu-chống-khẩu-hiệu như thế giữa rừng biểu ngữ hừng hực phét lác trong những tháng biểu tình bạo động của điệp trùng sinh viên vào những năm đó. Rồi cũng chẳng đi tới đâu. Khẩu hiệu như bùa lú đang dẫn con người vào tuyệt lộ mà con người nào hay. Biểu ngữ như sợi dây thòng lọng muôn tầng đang siết họng, càng ngày càng chặt, một phần thân thể còn lại của dân tộcViệt. Có điều là nơi ấy vẫn còn một chút tự do để nói, thì lại ngu đến độ hầu như chẳng nói năng được gì cả; mà có nói đi nữa thì chỉ như cô gái nhà quê ỏn ẻn vài ba câu cho có, thì làm sao cự lại nổi một tên ăn cướp mà lại già mồm như một mụ hàng tôm hàng cá, và khi cần, giảo quyệt như một tay luật sư mafia. Nguyệt về nước vào năm chiến cuộc bước vào thời kỳ kinh hoàng nhất, nhưng miền Nam vào những năm ấy, trên chiến trường, người ta còn thấy được cái cơ may sống sót của Tự Do.

“Thôi Bernard ở lại, Nguyệt về. Cẩn thận với cái rhétorique, kẻo lại giết thêm một dân tộc nữa!”

Cha Nguyệt, một bác sĩ giải phẩu giỏi có tiếng ở quân y viện Cộng Hoà. Hôm Nguyệt xuống phi trường ông còn đang bận với những thương tích. Phần cô, mới bước chân xuống phi trường cô thấy máu me đã đầm đìa lắm rồi trên từng người dân Việt: trên sắc mặt binh lính thì đã đành mà cả trên từng nụ cười của những cô chiêu đãi viên hàng không mềm mại trong chiếc áo dài màu xanh thanh bình mà dân tộc cô bao đời mơ ước. Một dân tộc mà ngàn năm nô lệ giặc Tàu, trăm năm nô lệ giặc Tây chưa thể lôi họ xuống vực sâu sâu như cuộc chiến hôm nay. Nguyệt chỉ nhận được lời chào của cha cô qua điện thoại ở khu tiếp tân phi trường: “Bienvenue à la saison des bénédictions!5“. Cô không ngạc nhiên lắm vì cái lời chào mừng không giống ai như thế, vì cô đã được nghe kể hồi còn du học bên Pháp các bạn đồng song vẫn gọi đùa ông Ban là Monsieur Rimbaud6. Lúc cô ngỏ ý muốn về nước, ông Ban đồng ý ngay. Nguyệt thoạt đầu hơi ngạc nhiên, vì thường các ông bà có con đi du học chẳng mấy ai muốn con về nước làm gì trong cái thời loạn ly này, ngoại trừ những người đã dọn sẵn cỗ bàn cho các cô chiêu cậu ấm. Ôi, cái bằng cấp của Nguyệt chẳng làm được cái nước mẻ gì, cùng lắm chỉ đi dạy học, làm báo, về mà làm chi! Ở bển mà tránh làn tên mũi đạn. Sài Gòn: Hỏa tiển, và thương tích trôi về tím đỏ giòng sông con người, ken với những mảng lục bình tím ngát sự sống. Giới thạo tin đã bắt đầu bán bất động sản, thu quén của cải, dọt. “Không nhường một tấc đất cho Cộng sản!”  ” Ðừng nghe những gì Cộng sản nói mà hãy nhìn những gì Cộng sản làm!”  “Không gì quí hơn Ðộc Lập Tự Do.”  “Ðánh cho Mỹ cút Ngụy nhào!”  “Huế, Sài Gòn, Hà Nội, bao nhiêu năm sao vẫn thờ ơ!”  “Lại gần lại gần với nhau; ngồi gần nhau hơn; đừng bỏ tôi đi…”

Tiền đồn Ða Rưng, buổi sớm, nắng vàng bắt đầu vén dần màn sương mỏng quanh đồn và khoan thai treo trên láng cây thưa ven rừng trước mặt. Những vầng cầu vồng vẫn vương giả tuyên dương màu sắc giữa bãi chiến trường đã nát ngấu từ lâu. Mùa mưa xanh dường như đã không còn đủ sức khâu vá những vết thương. Người ta cứ ngỡ đang đứng giữa biên giới của thần tiên – quỉ sứ. Hôm nay trời trở lạnh như một thoáng thu Paris lọt về đây. Có cả nắng vàng sáng và thơm tho như những giòng mật đầu mùa. Gần Giáng Sinh rồi còn chi! Tiếng súng chỉ nổ đì đẹt như chỉ muốn gióng lên sự hiện hữu của con người. Những con giun đất bắt đầu bò ra, bò chậm thanh bình. Mấy con ốc ngo ngoe râu ngóng nắng. Lòng của Nguyệt cũng nhú lên một niềm vui như cành lan Bạch Nhược Phi sáng nay nụ đầu tiên lại bắt đầu e dè khoe hương phấn trước cửa hầm của cô. Cô nhớ lại cái đêm hôm qua, sau khi nói đủ thứ chuyện trong cái lô cốt truyền tin, Trung bỗng hỏi Nguyệt về cành lan. Cứ ngỡ anh chàng đã quên. Cái sáng sớm  ấy, Trung cùng với trung đội trinh sát đi tuần tra vòng đai tiền đồn trở về, đã ghé qua doanh trại đại đội của cô, tìm đến cửa hầm và trao cho cô cành lan:

– Ðưa cho cô cành lan trồng cho vui.

– Lan ở đâu vậy anh?

– Hm…ở ngoài vành đai.

– Rừng Tây nguyên có những thứ lan thật lạ. Không biết loại lan này tên gì.

– Thì kiếm cho nó một cái tên!

Rồi Trung, cùng với toán lính, quay về doanh trại của đại đội anh. Nguyệt không nghĩ anh chàng đưa cho Nguyệt cành lan với hậu ý rụt rè nào đó. Anh sinh và lớn lên ở Mỹ thì cái chuyện rét gái là cái chuyện họa hiếm; và trong cử chỉ lẫn giọng nói của anh không có vẻ gì nhút nhát cả. Chỉ là một hành vi cho, thế thôi.

Cành lan, có cánh chỉ còn trơ lại cuống, có cánh bầm dập, nhưng những cánh còn lại có một màu trắng tinh khiết, lốm đốm đỏ không đều như một bức tranh trừu tượng thu nhỏ, đơn giản nhưng vẽ  khéo, và hình như có cánh lem nhem cả vệt máu thật, bởi vì nơi những cánh ấy cái phối trí màu sắc không được hài hoà như những cánh khác, như một sự xúc phạm. Cô tính hỏi Trung về vệt máu, nhưng rồi nghĩ lại cũng chẳng nên hỏi mà làm gì khi chính máu từ những thân thể của những con người được tạo dựng theo hình ảnh Thượng Ðế, chẳng những chảy mà còn vọt, còn tung toé quanh cô mỗi ngày, như một sự phí phạm; và một khi Trung đã không muốn nói, thì cũng chẳng nên hỏi. Chẳng phải những ẩn ngữ, những ý tại ngôn ngoại đã làm cho cuộc sống có được những mạch ngầm thú vị đó sao? Nếu không, cuộc đời lại chẳng khác gì một màn quảng cáo. Thế mà tối hôm qua Trung gọi máy mời cô qua lô cốt truyền tin bên doanh trại đại đội A của anh nói chuyện chơi. Chuyện lạ. Lính trong doanh trại đại đội B, nơi cô ở, có nói ít nhiều về anh, nhưng cả năm nay cô chỉ thỉnh thoảng gặp anh, và chỉ gật đầu xã giao. Chắc lính ở bên doanh trại của Trung cũng bàn tán về cô. Nguyệt nghĩ không biết tại sao những người lính ấy cứ nghĩ những người như Trung, như Nguyệt có một cái gì đó khác thường, nếu không nói là phi thường, được nhỉ? Có phải vì một truyền thống cứ thích xưng tụng những anh hùng, liệt nữ, những vị thánh, mà không đặt nặng giá trị suy tư về chính cái tôi khốn khổ, vất vả khi đứng trước cõi thế, lẫn cõi trời?

–  Cô biết không chai rượu này – Trung vừa rót rượu ra ly vừa nói – tôi cứ để đây cả mấy năm, hôm nay mời cô qua đây uống một chén cho vui, biết đâu lại không còn dịp để uống.

–  Ừ, mà anh kiếm đâu ra hay vậy?

–  Con nhỏ hàng xóm bên Mỹ gởi, nhân ngày sinh nhật của tôi, cách đây đã bốn năm.

–  ……

– Thiệt tội nghiệp! Trước khi tôi qua đây con nhỏ còn bắt đầu bước chân vô đại học; sau đó lại ham mê chuyện phất cờ, giăng biểu ngữ, hô phong hoán vũ; thế mà sau đó chẳng bao lâu lại đâm đầu vào cần sa ma tuý. Mới chết cách đây mấy hôm vì chích quá đô. Trong một cái xó xỉnh nào đó ở San Francisco.

–  I’m sorry.

– Tôi thù mấy cái khẩu hiệu. Thiệt lạ đời, cái dân Mỹ văn minh như thế mà lại bị cái bọn xướng ca vô loài Woodstock7 vẽ đường chỉ lối. Chúng gào, chúng thét trong hơi khói cần sa mà người ta cứ cho chúng là những vị tiên tri thời đại mới; không nghe chúng thì chẳng khác gì dân Do Thái, theo Kinh Thánh Cựu Ước, chẳng chịu nghe lời tiên tri Giêrêmia8 không bằng. Con nhỏ ân hận vì đã thương lầm người, một babykiller9  như tôi. Tôi tính gởi trả chai rượu, nhưng cô biết đó, trước cái chiến trường có tầm mức của một ngày tận thế như ở đây thì tất cả mọi chuyện đều trở nên vụn vặt. Con người muốn xác lập cho mình một cái phận, một bến đậu. Vũ khí, vũ lực, núi rừng, vực thẳm không làm cho người ta cô đơn, nhưng cô đơn ở chổ người ta thấy mình bị hiểu lầm, bị bỏ rơi như một chiếc bè phận người bị chặt mọi dây neo bến đậu trong bể nhân sinh. Càng cô đơn thân phận của một kẻ bị bạn hiểu lầm; nhất là kẻ bị hiểu lầm ấy lại là một kẻ phải đổ mồ hôi, đổ máu ra để xác lập, để bảo vệ cái căn tính, cái trú sở của mình và của bạn. Cái tâm hồn dân Mỹ đa số đã đầy khói cần sa thì làm sao còn suy nghĩ cho có ngành có ngọn được. Cái đa số ấy không còn có ý niệm rõ ràng về thời gian, về lịch sử, về cái không gian, về cái thế giới nhân quần mình đang sống. Tôi thù những khẩu hiệu, những bài du ca cần sa của những đứa như Bob Dylan, John Lennon, Jim Hendrix, Joan Baez… đã góp phần tạo nên cái đa số đó.  Người Pháp họ có cái câu gì mà The ideas…

   – Les idées gouvernent le monde.

– Ừ, phải rồi. Nhất là vào cái thời đại nầy tư tưởng lại được diễn tả bằng những hình thái sinh động và những phương tiện truyền thông tối ưu… Xin lỗi, mời cô qua chơi mà bắt cô phải nghe những chuyện của tôi.

– Chuyện của chúng ta thì đúng hơn. Anh cứ nói.

– Chúng ta? Ừ, phải đó! Uống đi Nguyệt… Chúng ta nhiều lúc sống cũng để chỉ khâu vá, hàn gắn cái hiện sinh của mình. Nếu không như thế mình không là mình. Mấy anh em ở đây cứ nghĩ tôi là một kẻ nầy, kẻ nọ, đáng trọng, nhưng cô biết đó, tôi cũng chỉ là một kẻ ích kỷ, tôi ở đây là vì tôi, chớ có vì ai đâu… Nhưng thôi, tôi cũng chẳng phân bua mà làm gì. Mỗi người ai cũng sống bằng những kinh nghiệm, bằng cái lịch sử của mình… Cô biết không, cái cành lan tôi cho cô cách đây mấy tuần không hiểu sao lại nằm cạnh xác của một anh thượng uý Cộng sản dẫm phải mìn chết gần hàng rào doanh trại của đại đội C. Tôi cũng không biết tại sao tôi lại nhặt và đưa về cho cô một cành hoa đã bầm dập và vấy máu như thế. Cứ hiểu đó là một nghĩa cử, một tặng vật tình yêu… hay một hành vi vô nghĩa cũng chẳng sao. Tôi chỉ biết là tôi phải làm điều đó, không làm không được. Cũng như hôm nay không hiểu có cái gì đó thôi thúc tôi phải nói chuyện với cô. Một lời trối trăng chăng? … Mà này, cô đã đặt tên cho cành lan chưa?

–  Thưa anh rồi, tôi đặt cho nó là Bạch Nhược Phi.

–  Chà, cụ Khổng mà còn sống chắc cụ ấy phải khuyên son thưởng cô.

–  Mà cái nàng Bạch Nhược Phi đã nở thêm cánh nào chưa?

–  Chưa anh ạ, chỉ mới chớm nụ. Chắc cũng nay mai thôi.

–  Tuyệt, nó đã có một cái tên. Và có một ngày mai.

–  Bienvenue à la saison des bénedictions!

 

Quân xa, trọng pháo và xe tăng của quân Bắc Việt từ sau ngày ký hiệp định Paris, nườm nượp ngày đêm băng rừng Trường Sơn xuôi Nam dưới kia. Tiền đồn vẫn nằm đó như một con chốt tội nghiệp, đã tả tơi lắm rồi, nhưng không biết tại sao chưa bị gạt khỏi cuộc cờ. Quân Bắc Việt vẫn còn e dè xẻ con đường vòng loanh quanh cả mấy chục cây số để tránh đồn. Nhưng cả mấy tuần nay, máy kiểm thính cài quanh khu vực quanh tiền đồn gởi về vô số chớp đỏ và tiếng chân rầm rập ngày đêm như tiếng chân của trùng trùng đao phủ đang tiến tới pháp trường. Và kẻ sắp bị hành quyết đó lại đang bị trói tay, bị giam hãm trong một nhà tù phi nghĩa nhất; phi nghĩa ở chổ kẻ cộng sự, kẻ đã tự biến chiến luỹ mà chính mình đã dựng nên thành tử huyệt cho những người ở lại; đã bỏ đi thì chớ, thậm chí còn nhổ toẹt vào mặt những con người khốn khổ vực sâu, thế mà những con người ấy vẫn tình nguyện ở lại trong cái nhà tù đó. Ðã tan tành xác pháo. Và chắc sẽ còn tan nửa. Họ cầm chắc cái chết. Nhưng họ vẫn phải sống. Nguyệt cũng phải sống. Cô đã về nước không phải để chết.

Tiệc tàn. Trời đã khuya lắm rồi. Chỉ còn tiếng đại bác vọng về, chen giữa tiếng thẻ tre lóc cóc rao phở khuya. Một vài chiếc xe nhà binh chạy vội. Mọi người đã ra về chỉ ngoại trừ anh nhạc sĩ mà cha của Nguyệt vẫn rất mộ mến, tình nguyện nán lại để hái trái trứng cá cho Nguyệt, một thứ trái mà anh ta cho là đẹp và đầy sử thi tính, khiêm tốn mà rực rỡ, nhỏ nhắn mà bao trùm cả vận mệnh nước Việt. Anh ta thời gian gần đây, qua những bản du ca anh viết, và qua những phát biểu đăng trên những tờ báo của sinh viên, và của một số nhóm linh mục, sư sãi phản chiến, đã đòi xoá ba gạch đỏ trên lá cờ quẻ Càn và thay vào đó một trái trứng cá đỏ tươi nằm giữa cờ vì anh ta quả quyết là chính mẹ Âu Cơ đã sinh ra trăm quả trứng dưới tán cây trứng cá đó. Và anh ta còn nói là khi sinh, mẹ Âu Cơ quằn quại lâu, máu me vung vãi lên cả tán cây; cây trứng cá vốn là loài cây không quả, bỗng hiện lên vô số những trái đỏ lấm chấm như những giọt máu lâm bồn.

– Thế, thưa anh Ðỗ Công San – tên của anh nhạc sĩ – hồi tôi học chiến thuật sình lầy ở bên Mã Lai tôi thấy bên ấy cũng có cây trứng cá; xin anh giải thích giùm tại sao?” – Một ông khách dân nhà binh lên tiếng hỏi.

– Dạ thưa ông, chuyện đó thì cũng chẳng có gì khó hiểu: Ông cũng biết chuyện năm mươi con theo cha Lạc Long Quân xuống biển; biển đó là biển Ðông; cho nên cái chuyện đứa con nào đó lưu lạc qua Mã Lai và mang theo loại cây chứng kiến sự sản sinh giòng giống Âu Lạc cũng chẳng là chuyện khó hiểu.

–  ÐM, nước có mất nước cũng vì những thằng lẻo mép như thằng nầy! – Ông sĩ quan lính rằn ri kia rủa thầm.

Chỉ rủa thầm thôi, vì anh ta cũng cả nể, Trời ạ! Nhưng đa số khách khứa lại há hốc mồm nghe, kể cả ông chủ tiệc. May đêm khuya ruồi đã đi ngủ, nếu không thì có vị cũng được dăm ba con ruồi chui vào cùng lúc với những trái trứng cá mà anh nhạc sĩ đã ném vào cái miệng sững sờ của họ.

“Sao cái anh chàng này khi nói về lai lịch, cái sử thi tính của cây trứng cá lại khẳng định một cách ngon lành vậy kìa!? Người Âu châu họ rất cẩn thận khi dùng l’ Indicatif10 lúc muốn xác định ra một vấn đề gì, đã thế họ còn có l’ Conditionel11ghìm giữ ngôn ngữ họ lại, và còn được trang bị cả lô những chữ để diển tả cái chuyện có thể, có lẽ…, thế mà họ vẫn mang tiếng là những kẻ tàn hại thế giới bằng ngôn từ của họ. Chẳng phải chỉ dân châu Âu, một dân tộc châu Á như dân tộc Nhật, vốn có nhiều nét văn hoá chung với dân Việt, cái tiếp vĩ ngữ đềsồ, đarồ (có lẽ, có thể)  là câu đầu môi của họ. Có phải tính hồ đồ trong khi xử dụng tiếng Việt, nhất là động từ, đã góp phần gây nên những thảm họa cho dân tộc? Người ta dễ chạy theo những chuyện chỉ có giá trị “có thể”, những huyền thoại, những hoả mù ngôn ngữ do các tay tráo trở ngôn ngữ, nhất là khi bọn quỉ quyệt đó lại khéo vận dụng một loại ngôn ngữ hàm hồ, đa nghĩa như tiếng Việt. Les idées gouvernent le monde – Tư tưởng lèo lái thế giới. Mà tư tưởng là những chuỗi dài các từ, các chữ được nhà tư tưởng vận dụng, nhưng trong chuỗi ngôn từ, quan trọng hơn hết chính là động từ; nó đóng vai trò vận hành của tư tưởng. Bọn mánh mung dẫn con người vào mê lộ với cái lối dùng động từ lập lờ của họ. Chậc, cái rhétorique nửa mùa của cái anh nhạc sĩ nầy thật nguy hiểm!”

Cô lại cũng giống như ông nhà binh kia, chỉ rủa thầm. Sao vậy?

Ngoài ra, trước đó trong bữa tiệc, Ðỗ Công San còn hát những ca khúc cá vàng Việt Nam cho khách khứa da vàng nghe. Mọi người từ anh bồi chị bếp cho đến mấy ông lớn, bà lớn  há miệng nghe quên cả ly sâm banh sóng sánh hoàng kim. Có vị nghe đã quá, ném luôn cả ly rượu tây sủi bọt vào tường và chép miệng than trời ước được ly rượu đế chính hiệu con nai vàng cất từ những lò Nam Trung Bắc xứ Việt uống mới đậm đà tình dân tộc. Nghe ca khúc cá vàng từ ba giòng sông đất nước mà lại uống sâm banh tận đâu đâu xứ người thì thiệt không đâu vào đâu cả. Chỉ có Nguyệt vẫn thủng thỉnh  nhắp từng ngụm loại rượu mà những lần về trang trại trồng nho của bố mẹ Bernard ở Bordeaux, hai người lén xuống hầm rượu vừa nhắp vừa thưởng thức những giọt tình tí tách trong tim. Cô có lúc đã nói với Bernard: “Tây phương chỉ có hai món đáng trọng vọng đó là đàn dương cầm và sâm banh, chúng chỉ đường đến ánh sáng sự sống.”

Anh chàng nhạc sĩ đu đưa trên cành và cười lích chích với Nguyệt, như một chú khỉ con. Thỉnh thoảng anh  lại nhảy xuống vớ lấy đàn ghi ta thùng khảy khúc tứng từng tưng. Rồi anh ta nhai ngấu nghiến đôi kính cận, ca bài hạnh ngộ máu me. Anh kể rằng đất nước ngàn năm nô lệ, triệu năm da vàng mũi tẹt. Anh ước mơ đi thăm hàng hàng mộ chí. Anh thương mẹ Việt Nam, thương quá sức, và tình nguyện dìu các bà qua nghìn trùng tai biến, lại còn bê cả đất mẹ thương tích lên võng để ru. Hình như ngày xưa anh ta là kẻ sinh thiếu tháng èo uột, được mẹ ru nhiều, nên ra cái điều thích chuyện ầu ơ. Và nửa cái đất nước còn lại giống như thằng cu, cái hĩm, hình như cũng rất khoái những điệu ru của anh. Ôi, cô-bé-khăn-đỏ nam nữ  nào, dù đã lớn xác, mà  lại chẳng thích câu ru của mẹ, của bà. Bao nhiêu trái trứng cá đỏ au, mọng nước nghe tiếng anh ta hát, mê tơi, rơi ào ào vào miệng anh chàng, và chui luôn vào thùng đàn. Người ta không còn phân biệt được tiếng ca, tiếng đàn của gã là những âm thanh đớn đau của máu hay là tiếng dịu ngọt trái trăng. Nguyệt lịm người, vì bài ca diệu vợi nào mà chẳng có máu tươi và mật ngọt; cái cô Nguyệt mới hôm nào, trước mọi ngôn phái, thi phái xứ người, vẫn lạnh như vầng trăng đông chí, và, chỉ mới lúc nãy đây, giữa bữa tiệc, cô đã hằm hè với những ngôn từ ngọt lẻm của gã nhạc sĩ, thế mà bây giờ, lại run rẩy há miệng hứng lấy những trái trứng cá đỏ tươi từ miệng anh nhạc sĩ phun ra. Và khi đã bưa, cô bước đến gần và sà vào lòng gã Trương Chi tái thế đó – lúc nầy đã ngồi bệt dưới tán cây – như rơi vào vực thẳm huỷ diệt mà nào có hay.

Giữa khuya vầng trăng nhìn xuống thấy cô gái cùng tên với mình nằm co hình chữ S bên hè nhà; có con trăn dài cả hai ba thước, loại trăn núi rừng Trường Sơn, quấn quanh cổ, vừa đang siết dần, vừa âu yếm thè lưỡi liếm lên mái tóc rối rắm, lên khuôn mặt bơ phờ buồn bã của Nguyệt; không phải là cái vẻ mền mệt, hay cái nét buồn buồn dịu ngọt sau cơn tình ái, nhưng là sau một lần thất tiết.

Khi vầng trăng rằm khuya lên ngự trên thiên đỉnh, không biết gà từ đâu giữa phố thị mà gáy vang vang.

Sáng ra người ta không còn thấy Nguyệt ở trong vườn nữa; chiếc áo dạ hội màu xanh biển thái bình bị quẳng vào sọt rác lờ nhờ những trái trứng cá Âu Cơ chưa kịp tiêu bị mửa ra. Gia đình không biết cô đi đâu.

Hỡi Titan! Dưới những con mắt bất tử,

Dù các vị thần

Nhìn thấy, trong thực tại thê thiết,

Những đớn đau của loài hay chết,

Các vị ấy vẫn chẳng chùn tay.

Thế thì cái gì sẽ là cái bù lại cho cái lòng thương xót cuộc thế của ngươi?

Cắn răng chịu đựng,

Ðá tảng, kên kên, xích xiềng,

Tất cả những thứ đó, con người, dù kiêu hãnh, vẫn biết đau;

Thế mà ngươi lại không tỏ ra cái vẻ của kẻ lâm chung.

Ðớn đau quằn quại; nói ư? chỉ nói khi vắng vẻ,

Và rồi cứ ngại rằng trong khung xanh kia có kẻ nghe lén, nên ngươi đã chẳng cất tiếng thở dài

Cho tới khi trời kia không còn dội tiếng.

 

Titan hỡi, ngươi phải đấu tranh giữa đớn đau và lòng tham-sanh-uý-tử.

Trong trường hợp hai điều đó không thể giết chết ngươi, thì chúng lại xoay ra hành hạ ngươi.

Và Ông Trời bất bao dung,

Và cái Ðịnh Mệnh câm điếc tàn bạo kia.

Cái nguyên lý vận hành của Sự Ác, vì chỉ để làm trò vui, đã tạo tác

Những thứ mà Ác ta một ngày nào đó lại sẽ hủy diệt.

Nguyên lý đó đã khước từ ngươi diễm phúc được chết cho rảnh nợ:

Cái tặng vật thê thiết Vĩnh Cửu đó lại dành cho ngươi – và ngươi đã ung dung đón nhận

Tất cả Sấm Sét.

Và lời cảnh cáo của ngươi sẽ là: Ném trả vào mặt Sự Ác những hành hạ mà ngươi đã chịu trên giàn khảo hình;

Ngươi đã thấy rõ trước: Phận ngươi phải hành động như thế,

Nhưng ngươi sẽ không huênh hoang với Hắn12b.

Trong Thinh Lặng của ngươi có Lời Tuyên Án.

Trong Linh Hồn của Hắn chỉ thoáng một chút ân hận vô nghĩa,

Và sự gieo kinh hãi ác độc của Hắn, ai đó đã cố tháo gỡ mà chẳng nên cơm cháo gì

Ðến nỗi trong tay Hắn, Sấm Chớp lại vẫn run rẫy từng cơn.

 

Từ-tâm là một loại tội ác Ông Xanh đã trót phạm:

Trời đã có lúc nới tay lề luật,

Ðể chuộc lại trùng trùng khốn nạn nhân sinh;

Và còn  trang bị cho Con Người trí khôn để cho nó được mạnh mẽ.

 

Dù trên đỉnh cao kia ngươi hổn hển,

Nhưng nơi nghị lực, trong chịu đựng, và trong sự chống trả của ngươi,

Hậu thế chúng tôi đã thừa hưởng được một bài học uy dũng:

Ngươi là biểu tượng, là dấu chỉ về phần số bất phục,về sức mạnh

Cho nhân sinh khả tử chúng tôi;

Cũng giống như ngươi, Người Thế có một phần linh,

Một giòng nước khoắng bùn phát xuất từ cội nguồn tinh khiết;

Và Người Thế, một phần nào, có thể thấy trước phần số tóc tang của mình,

Sự khốn khổ, và sự phản kháng,

Và cái hiện hữu phi liên kết buồn bã của hắn.

Tinh Thần của Người Thế đã đương đầu với cái hiện tồn ấy – Và đối đầu luôn với cả mọi thứ sự dữ.

Một ý chí sắt đá, và một cơ tâm thẳm sâu,

Dù trong cay cực mà vẫn chối từ mọi đền bù thăng thưởng.

Lẫy lừng ở chỗ Người Thế dám thách đố,

Và dám biến Sự Chết thành Khải Hoàn.

(George Byron / Promotheus – Promotheus, Người-cướp-lửa-Trời12)

Cả hai tuần nay pháo của quân Bắc Việt đủ loại nện vào đồn. Những giàn trọng pháo trên những ngọn núi cao bao quanh bắn trực xạ vào; chúng gần đến độ có thể thấy khói bay từ các họng đại bác. Mấy chiếc phi cơ oanh tạc của không quân Việt Nam Cộng Hoà chẳng đủ sức, đủ số, để bịt miệng những họng súng đó; phải giảm số các phi vụ và phải tiết kiệm bom vì quân viện đã bị Mỹ cắt sát ván. Và cái chết nó như một trái lựu đạn đã giật chốt rồi; chỉ còn một tiếng nổ chuyển đời.

Khi đợt xung phong cuối cùng của quân Bắc tràn vào tiền đồn thì đồn đã tan tành, đúng là không còn hòn đá nào chồng lên hòn đá nào. Và tất cả đã bị thiêu rụi bởi loạt bom napal mà thiếu tá tiểu đoàn trưởng chỉ huy tiền đồn đã ra lệnh thả khi quân Cộng sản Bắc Việt tràn ngập đồn. Cái cảnh huỷ diệt của thành quách Giêruxalem mà Chúa Giêsu đã tiên báo và cái địa ngục của thi hào Dante13 vẽ ra  trong Tấn Tuồng Thần Thánh thiệt không nhằm nhòi gì so với cái cảnh tiền đồn Ða Rưng vào lúc đó. Một địa ngục đen, nát ngướu, nhầy nhụa; xác người tơi bời như một mẻ cá trích nướng ai đó đã hắt xuống cõi trần như những đồ thiu thối. Và im lặng tận cùng, cái thinh lặng nó mạnh đến nỗi có thể bóp chẹt, nhận chìm được những tiếng kèn tây xung trận và những câu xung phong hùng hổ cuối cùng “Vì Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, các đồng chí tiến lên!”  “……”  và cả những tiếng súng và tiếng lựu đạn ném vào các cửa hầm.

Rồi khi toán lính Bắc Việt đầu tiên xông vào hầm truyền tin cũng là hầm chỉ huy, chúng thấy một xác đàn ông cháy như một con chó thui quá lửa, hàm răng nhe ra như đang cười, nhưng cạnh cái xác cháy đó lại có thân thể một thanh nữ trần truồng và trắng như cẩm thạch trắng; cái thân thể ấy đang trong một tư thế rướn cong hình cung lên trời, hay nói đúng hơn lên trần hầm trú ẩn, như một nỗ lực cuối cùng nhằm hứng lấy những bom đạn từ trời.

 

Oslo, Giáng Sinh 2000

 

(1) Cái bí nhiệm… trích từ  La Condition humaine – Phận Người của André Malraux, văn hào, bộ trưởng bộ văn hoá  Pháp, (1901 – 1976).  Nguyễn Văn Thà dịch đoạn này.

(2) L’Apocalyse Viêtnamienne: Khải Huyền Việt Nam (Khải Huyền: Cuốn sách viết về sự huỷ diệt thế  giới – ít ra theo nghĩa đen – trong cuốn sách cùng tên trong Kinh Thánh).

(3) Le rôle…: Vai trò của tu từ trong cuộc Ðại Cách Mạng (1789). Tu Từ: Nghệ thuật  dùng ngôn từ để gây xúc động, hoặc thuyết phục người nghe, người đọc.

(4)  Gaulois: Tiếng xưa để chỉ dân Pháp.

(5)  Bienvenue…: Chào mừng (con ) về với mùa ân phước!

(6)  Rimbaud: (1854 – 1891) Thi sĩ Pháp, tác giả tập thơ La saison en enfer: Mùa Hoả Ngục, …

(7) Woodstock (festival): Ðại hội quần tụ giới trẻ, hippy, năm 1969 (15.9), kéo dài trong năm ngày, có tới 400.000 người ham dự. Chống chiến tranh (Việt Nam); cổ võ tình yêu; nhạc “mới”;  thử nghiệm tình dục kiểu mới, ma tuý, và các loại đạo xứ lạ (Ấn độ…)

(8) Babykiller: Kẻ giết trẻ thơ: Lính Mỹ bị  những người phản chiến gán cho “mỹ hiệu” này trong cuộc chiến tranh Việt Nam

(9) Tiên tri Giêrêmia: (khoảng 650 – 565 tr. CN) , tiên tri xứ Do thái. Bắt đầu được Thiên Chúa kêu gọi làm tiên tri dưới thời vua Dôxia, Dêhôiakim, Dêđêkia. Sách của tiên tri Giêrêmia phần lớn gồm những lời cảnh cáo về sự phán xét của Thiên Chúa đối với dân Do thái vì họ đã vi phạm lời giao ước với Thiên Chúa, và cũng gồm những lời hứa hẹn về một giao ước mới. Sách cũng kể lại những thống khổ của tiên tri và những lời cảnh cáo về tai họa xâm lăng của ngoại bang. Ngoài ra còn có sách thơ Ai ca, cũng của tiên tri, diễn tả những đớn đau của dân thành phố Giêruxalem phải chịu khi bị quân Canđê bao vây năm 587 tr. CN; nhưng từ những lời ai oán này, người ta thấy tiết ra một niềm tin tưởng không thể lay chuyển vào Thiên Chúa và một tâm tình thống hối thâm sâu. (Theo The American Peoples Encyclopedia và Nguyễn Thế Thuấn trong Kinh Thánh)

(10) L’ Indicatif: Xác định cách của động từ

(11) Le Conditionel: Ðiều kiện cách của động từ

(12) Hỡi Titan…: Dịch từ bài thơ Promotheus (Người Cướp Lửa Trời Promotheus) của George Byron, thi hào Anh, (1788 – 1824). Nguyễn Văn Thà dịch./ Titan: Siêu nhân trong thần thoại Hi lạp./  Promotheus: Siêu nhân đã cướp lửa của Trời Zeus, cho nhân loại, bị bắt được và bị xiềng trên núi Caucase, (theo thần thoại Hi lạp). / (12b).  “Hắn”: Nguyên  Lý Sự  Ác.

(13) Dante, Alighieri (1256 – 1321): Thi sĩ, học giả người Ý; tác giả trường ca Tấn Tuồng Thần Thánh (Divina Comedia) gồm ba phần: Hoả Ngục, Luyện Ngục, Thiên Ðàng.  Các hình ảnh ghê sợ về hoả ngục trong các bức tranh hoả ngục treo trong các nhà giáo dân Công giáo, đa số, dựa trên những hình ảnh Dante tưởng tượng trong tác phẩm kể trên. Hoả ngục, theo Kinh Thánh, không rợn rùng như người ta tưởng

NTNV 5 – Miếu Đền

Nguyễn Văn Thà

 

https://www.memoireonline.com/06/12/5937/La-representation-de-lAfrique-et-des-Africains-dans-les-ecrits-dun-missionnaire-poitevin-Le3.png

Một linh mục thừa sai

 

Làng An Bình nằm cạnh khu rừng có chùa và mộ Thầy Thím có tiếng linh thiêng. Dân ở đấy phải nói là an cư lạc nghiệp vì ruộng vườn cho họ lương thực, núi rừng cho họ mái nhà, bếp lửa; ấy là chưa kể là những láng hoa mai vàng thả hương lừng không gian dọc đường lên ngôi chùa cổ nằm lưng chừng ngọn núi. Và lòng họ an lành như những tiếng sóng về khuya. Sóng ở đây, dù vào mùa biển động, chỉ là tiếng gầm của loài thuồng luồng ai đó đã vỗ về đưa trở về với cõi Vô Cùng. Nó chỉ gầm để tự giới thiệu sự hiện hữu của mình, nhưng rồi chẳng được tạo vật nào để ý, vì mọi loài đều bận rộn khoe cái thanh, cái sắc. Cứ hỏi những vạt hoa muống biển tím ngát, và những hàng thuỳ dương xanh ngắt cũng đủ biết.

Và vị sư trụ trì xem ra cũng không khuấy động gì nhiều: Chuông chùa bữa có bữa không, khi khoan khi nhặt, đôi bận gầm như thú giận, đòi phen ri rỉ côn trùng. Nói chi chuyện kinh kệ, đăng đàn thuyết pháp. Ðã lâu lắm rồi thì phải, dám cả mấy chục năm mà thầy chưa một lần mở miệng. Có kẻ bức bối chuyện nghĩa kinh lên tìm thầy; may thì gặp thầy ngồi vắt vẻo trên cành cây thanh trà vuốt ve từng chùm trái mọng mỉm cười; không may lại gặp thầy hoá đá bên suối làm bàn thạch cho khỉ đưa mông chà đít. Riết người ta cảm thấy thầy có đó mà như không. Người ta không chắc thầy sống hay chết.

Thế rồi một hôm cha Gabriel đến sống ở giữa vùng đất Thầy Thím ấy; và mục đích của các vị bề trên rất rõ ràng: Cha đến đó để truyền giáo. Truyền giáo là một sứ mạng đòi hỏi cha phải hoạt động nhiều mặt. Cha khuyến giáo đám dân ngoại đạo. Dần dà có dăm gia đình theo đạo; nhưng rồi đám tân tòng đó đi lễ vài bữa rồi lại lặn đâu mất.

Một vài năm sau, nhân có chính sách dinh điền, ngài nảy cái ý đưa dân di cư có đạo gốc vào định cư ngay giữa vùng đất Thầy Thím ấy với sự hổ trợ tài chánh của chính phủ đương thời và các cơ quan từ thiện bên Pháp. Rừng núi được khai hoang. Tiếng người rộn rã hơn xưa; tiếng đọc kinh, tiếng hát và tiếng chuông nhà thờ dần dần nhận nhìm tiếng chuông chùa vốn chẳng chuộng gì phù thế. Cái không khí huyền bí trăm năm lui vào thiên cổ như những câu đối tàn phai trước cửa tam quan loang lổ gió mưa.

Nhưng trong cái xứ đạo mới ấy, có hai sự cố hay làm rộn miệng nhiều nhất: xe chiếu bóng chi thông tin về làng, và chuyện chửa hoang. Xe chiếu bóng về một đêm là hết chuyện, nhưng chuyện chửa hoang sẽ dài dài trên cửa miệng người đời từ khi bụng của cô gái liều mạng nào đó hết giấu nổi cho tới khi cô chết xuống lỗ. Ðó là đề tài nói đã miệng nhất, trơn miệng nhất, và cũng là cơ hội bằng vàng cho các bà già có, sồn sồn có, tự gắn cho mình cái huy chương đức hạnh. Chỉ cần nhìn vào đôi mắt thường ngày đờ đẫn mệt mỏi chuyện áo cơm, thế mà mỗi khi kháo nhau chuyện chửa hoang lại long lanh rỡ ràng, thì cũng đủ biết cái hạnh phúc mà chuyện chửa hoang mang đến cho các bà to lớn đến là nhường nào. Những dịp kháo nhau có thể là khi ngồi chồm hổm ăn bánh bèo, trên đường đi lễ về, hoặc giả những buổi trưa hanh hanh rỗi rãi bươi tóc tí tách cắn chí… Chửa hoang quả là một chuyện bi hài, đầy tính hí trường.

Tôi dùng chữ “hí trường” với cái nghĩa đen của nó.

Trùm Thành là người chủ trì cái hí trường đó. Ông là dân Vinh, vợ kẹt lại ở ngoài nớ. Vào Nam đã gần mười năm mà ông  chỉ sống một mình, không lấy bà nào, cũng không làm chuyện tội lỗi  với ai cả. Ông hơi lùn, da đen xỉn, hàm răng nhuộm đen đâu từ ngoài nớ, khít rịt kể cả lúc nói, không hút thuốc cũng không ăn trầu, má hóp. Nói tóm, mặt ông giống hình của HCM in trong tờ giấy bạc cũ của chính phủ Việt Minh.

Nhưng ông trùm Thành là người vốn dĩ hiền lành. Nhà ông có một cây khế ngọt xum xuê quả, trẻ con có thể đến xin khế không chút ngại ngùng sợ hãi. Cái hiền lành lộ ra trong giọng nói thường ngày; nói chi những lúc xướng kinh trong nhà thờ, giọng ông thật ngọt ngào, ví dụ như khi ông xướng “Tôi đội… ội ơn Chua… úa tôi đã làm phước cho tôi bấy nay…” sau khi rước Mình Thánh Chúa, chưa nghe dứt câu tôi đã ngủ gục ngay bởi vì giọng ông êm đềm còn hơn tiếng ru của bất cứ bà mẹ quê nào.

Ông được cha Gabriel (lúc này đã được bề trên chuyển đi coi sóc xứ đạo chính Sơn Thổ, cách làng An Bình cả ba chục cây số) giao cho chức trùm trưởng thay mặt cha coi sóc họ đạo.

Và ông đã tự dựng lên một loại “toà án giáo dân” để hạch hỏi những vụ chửa hoang. Không biết ông cha tây có biết vụ này không, nhưng tôi không thấy cha can thiệp gì cả. Xem ra cha còn bận bịu những chuyện quan trọng khác như đi xin đồ viện trợ cho dân dinh điền, bận xây dựng các trường ốc và còn bận đi săn, nên chẳng biết.

Trong phép đạo mang tính cách làng xã Việt Nam, xem ra cái điều được đề cập nhiều nhất và nghiêm khắc nhất là những khoản phạm đến Ðiều Răn Thứ Sáu1: Chớ muốn vợ chồng người. Cho nên trong làng mới có phương ngôn: “Ðâm người, rồi người ta cũng sẽ quên, nhưng nếu ả mô chửa hoang, đến đời cháu đời chắt người ta vẫn còn chưởi thúi đầu.”

Khốn khổ cho thân cô Bông, đã biết thế mà còn phạm cái điều còn ghê gớm còn hơn giết  người, đó là đã dám sinh người, nhưng trong trường hợp của cô, sinh người mà lại chưa cưới xin, hoặc nói theo chữ nhà đạo: Cha chưa làm phép. Ðó mới là cái đại hoạ của cô.

Vào những năm đầu thập niên sáu mươi, số người lương, hiểu là những người theo đạo Phật, hoặc theo đạo Ông Bà trở lại đạo Công giáo khá nhiều. Những người lương đó cứ cho những người trở lại đạo là những người theo “đạo ông Diệm”,  hoặc “đạo thằng Diệm” trong trường hợp người nói đó còn có dây mơ rễ má với phe trong rừng. Những người như thế sinh sống khá nhiều ở vùng Gò Bàng. Gò Bàng nằm giữa một vùng đất cằn cỗi, nên đất gò lại càng cằn cỗi hơn. Người ta phải nghiến răng, trần thân hạ cây, đào từng gốc cây, bươi từng cọng rễ tranh để kiếm sống; vì vậy, khi đã trót tin vào cái gì, dù là tin dại, thì lại nghiến răng gồng mình tin, ví dụ, tin là các “anh-trong-rừng” là những người yêu nước; và những ai chống lại các anh trong rừng là những người đáng xả làm đôi. Ông Diệm, với những thuộc tính của ông, như chống những anh trong rừng… và theo đạo “của Tây”, dĩ nhiên cũng bị họ ghét. Ông Diệm mà còn bị ghét thì cái ông Thu, một người cùng với họ trôi nổi từ cái xứ Quảng chó ăn đá gà ăn muối vào, mà lại trở lại đạo, thì lại càng bị ghét tợn. Ðã thế ông còn cất công lội bộ cả chục cây số để đi đến nhà thờ xứ đạo gần nhất xem lễ Chúa Nhật, trong khi cái chùa Vĩnh Lạc chỉ cách nhà ông có mấy bước. Ông và gia đình đúng là một cái gai, hay nói đúng hơn, là một bãi phân trâu nằm chình ình giữa vùng đất của những con nhà cách mạng đó. Nhưng ông là một người hết lòng vì đạo, và dạy dỗ bầy con năm đứa như thế. Cô Bông là con gái đầu lòng.

Có tin  cố Gabriel mở dinh điền An Bình. Sau khi đi  coi đất, ông Thu, bán cả gia sản, đưa ngay cả gia đình vào An Bình định cư, bởi ở đấy ông sẽ được  ở gần “nhà thờ nhà thánh”, hơn.  Và ông hên:  Cái “nhà thờ nhà thánh” ấy lại nằm sát bên lô đất ông bắt thăm được; và tuy đó chỉ là mái nhà thờ lợp tôn nhỏ bé, nhưng ông có thể đi nhà thờ sáng chiều, và nếu bận, có thể nghe tiếng kinh dặt dìu sớm hôm. Ngoài ra vùng An Bình là một vùng đất pha cát. Ðất rẫy pha cát, trồng dưa hấu thì phải biết! Ông rất thích trồng dưa, nghề ruột của ông.

Khi từ Gò Bàng vào An Bình, có cái anh Tư Lài lại bỏ vợ đi theo ông vào vùng đất mới, cũng để giữ đạo cho trọn, bởi chính Tư Lài muốn trở lại đạo nhưng kẹt một nỗi bà vợ là “dân cách mạng” thứ thiệt, nhất định không theo đạo. Thế là anh bỏ bà ta ở lại Gò Bàng vào An Bình. Anh (và đứa con trai đầu) được ông Thu trong những ngày đầu chân ướt chân ráo, giúp đỡ cho ở trong nhà, vì dẫu sao ông Thu còn có chút ít vốn chấn đưa từ Gò Bàng vào.

Tôi khỏi cần tả lại tướng mạo của anh ra đây mà làm gì, chỉ cần biết là các bà mẹ trong làng bắt đầu thay đổi thói quen có từ đời ông cố ông vải: Thay vì kêu ông Kẹ, lại bắt đầu kêu Tư Lài để dọa những đứa nhóc không chịu ngủ mà cứ lì lợm lay nhay vú các bà. Cũng có thể ông ta có cái gì khác hấp dẫn, chuyện đó một thằng nhóc tì như tôi hồi đó không thể biết đặng, nhưng hầu như mọi người trong dân làng chẳng ai thấy anh Tư Lài có cái gì đáng gọi là ngon lành cả. Nhưng cô Bông là một cô gái ngon lành. Mấy chú thanh niên trên đường đi nhà thờ đọc kinh tối về, đi sau lưng cô Bông, hay thì thầm vào tai nhau những câu đại loại như: “Tau túi qua mới bóp vú con Bông; đạ quá trời!” hoặc “Con ma nớ đĩ ngựa; túi qua, tau gặp ả đi thả hương ở mô mò mò về, qua ngỏ bà Giá; tau vổ mông ả một cấy, ả không nói chi còn cười hí hí nửa chớ!”   Thực hư ra sao không biết, nhưng chuyện vú vê ngon lành, cặp mông to tròn nây nẩy không phải chỉ cô Bông mới có, vì cô cũng như các cô gái làng hằng ngày làm việc xốc vác, lại tương đối có cái ăn: lúa gạo, cá mắm, khoai củ.  Và vú cô Bông có gì khác vú các cô khác không mà hấp dẫn đến thế, tôi nhỏ quá không biết được, nhưng mông cô Bông quả có khác mông các cô khác: Ðó là một cái mông có gân.

Lần đầu tiên người ta và thằng-nhóc-tôi khám phá chuyện cô Bông có cái mông có gân là hôm cô Bông, cùng với các thiếu nữ khác, chia làm bốn nhóm, mỗi nhóm tượng trưng cho một sắc hoa, múa dâng hoa Ðức Mẹ. Chiều đó, cô Bông mặc chiếc áo dài trắng và một chiếc quần trắng hợp với màu hoa trắng. Cái anh dạy dâng hoa thật có con mắt: Cô có cái vẻ ngây thơ, trong trắng như những cành hoa trắng cô hái dâng cho Ðức Mẹ; ấy là chưa kể cái giọng hát chưa nặng mùi tục lụy, chưa vướng phải hơi trai; nó có cái nhí nhảnh, trong sáng của những tiếng chim ban mai.

“Hoa nay.. ỳ hoa trắng tô… ồ.. ốt tươi. Hái dâng là dâng Ðức… ực Mé. Hoa…oá này là hoa trắng tốt…ồ…ốt tươi…”.

Cô Bông vừa hát vừa lượn vòng quanh một chòm cây con giả làm núi, cao khoảng hai thước tây. Rồi cô rướn người lên hái chùm bông trắng mọc trên cao ngọn giả sơn ấy. Ngay lúc ấy, tôi thấy chẳng mấy ai nhìn lên toà Ðức Mẹ, cũng chẳng mấy kẻ để ý đôi bàn tay đang hái hoa của cô, dù đó là bàn tay búp măng, trắng trẻo nuột nà so với những bàn tay của các cô khác, hay vào đôi cánh tay dài thuôn thả và cái thân hình mềm mại, cho bằng để ý nhìn chiếc mông của cô (đã được ởm ờ nhập đề với đường xẻ tà có nhỉnh hơi cao.) Tôi không biết những anh thanh niên bên cạnh, trước và sau tôi, có đực mặt ra nhìn cô, hay  lại đang “chiêm ngắm” dung nhan Ðức Mẹ Từ Bi.

Cái thắc mắc ấy được giải đáp thoả đáng ngay:

Thoạt đầu có tiếng xì xào, rồi tiếng xì xào đó oà vỡ như sóng mùa biển động xô ghềnh. Trong khi tôi rất đỗi ngạc nhiên chưa hiểu nguyên do, thì anh Nam, anh thanh niên nổi tiếng là cù lần nhất trong họ đạo, bỗng thốt lên vừa đủ nghe, nhưng lại òng ọc như nồi cháo đặc đang sôi mà lại bị nắp vung ém lại: “Trời đất, mông con Bông có gân; lại gân đỏ nửa trời ạ!”  Tôi lúc đó chỉ là một thằng nhóc, mông có gân và lại gân đỏ là cái sự lạ lùng quá thể. Một khi anh Nam đã định vị trí của cái sự lạ lùng đó như thế, thì tôi không cần phải quay ngang lại hỏi han thêm mà làm gì cho mất thời giờ, và biết đâu anh ta lại lấy quyền huynh trưởng trong họ đạo tạt tai tôi, rồi còn mắng: “Cấy đồ con nít con nôi mà cứ lộn xộn!”, tôi bèn phóng ngay tia mắt vào ngay vị trí đã được anh Nam chấm toạ độ. Và lần nầy tôi thấy tận mắt cái duyên cớ của tiếng xì xào: Cái gân ấy chính là đường viền của chiếc xì líp của cô. Còn cái gân xì líp ấy là màu đỏ hay màu gì, thì tôi không thể nào nhìn thấy được. Nhưng tôi tin anh Nam nói đúng, vì anh, tuy nổi tiếng là cù lần, nhưng lại được cái là người có đôi mắt sáng nhất trong xóm biển. (Khi đi biển anh là người ngắm sao Rua định vị trí những hòn rạn, nơi cá hay tụ tập, một cách rất chính xác, kể cả những hôm sương mù; và anh còn cả quyết là sao Rua có hôm chín cái, có hôm mười cái, chứ không phải chỉ chín như trong câu ca dao: Sao Rua chín cái… )

Một thời gian ngắn sau, cái sự gân đỏ hay gân xanh đó được khẳng định ngay bằng một câu đồng dao, không biết ai đặt, được bọn trẻ hát ra rả và được mọi người ngấm ngầm công nhận: “Ả Bông, gân mông chỉ đỏ.”  Trong sử Ta, sử Tàu có những câu đồng dao, tuy khơi khơi, mà đã góp phần làm sụp cả một quốc gia. Thế mà mà xem ra câu đồng dao kể trên chẳng có tác dụng gì đến cô cả. Bằng cớ là mỗi khi cô Bông vác cuốc đi làm rẫy, trong nhà nhìn ra, tôi thấy chiếc gân mông của cô vẫn cứ thách đố nét hằn phía sau làn vải thô quần đi làm màu đen của cô. Cũng cần ghi nhận thêm là nhà tôi gần và cùng một dãy đường cái với nhà trùm Thành; có nghĩa là cái mông có gân của Bông đã từng làm xốn xang mắt ông và giáo dân cả họ hôm nọ dâng hoa cho Ðức Mẹ, làm sao bây giờ thoát khỏi của đôi mắt thẩm phán của con người giữ giềng mối họ đạo đó được.

Ngày ngày cô vẫn nhơn nhơn vác cuốc đi làm rẫy cùng với Tư Lài. Có những chiều hôm cô thong dong về  nhà, tiếng cười nả nớt giữa trăng trong. Người ta cứ ngỡ chuỗi cười nối kết đâu với muôn kiếp trăng sao, nếu không có tiếng cười khục khặc của Tư Lài chặt tàn nhẫn chuỗi ngọc thần tiên ấy. Tiếng cười của gã nghe như tiếng cú rúc mở màn cho một mùa hủy diệt. Người ta, nhất là các bà các cô đứng đắn ghét cay ghét đắng tiếng cười trăng vỡ của cô Bông, và dán cho cái nhãn hiệu là tiếng cười đĩ ngựa; trong khi đúng ra các bà phải ghét tiếng cú rúc của Tư Lài thì mới phải lẽ. Không ưa tiếng ngọc vỡ: Mấy mụ đàn bà đó thiệt là kì! Cái gì đã bóp méo khả năng thẩm định thẩm mỹ của họ vậy? Nhưng rồi cũng phải phục tài của mấy bà, vì các bà đáng là bậc thầy về cái ngành đoán nhân cách qua tiếng cười, (mà giới tâm lý gia Tây ngày nay gọi rườm rà là ngành tiếu-học.) Vì, quả thật, chẳng bao lâu, vào tháng ngắm nguyện kỷ niệm mùa thương khó của Chúa Kirixitô, cái bụng của cô Bông to thấy rõ. Tiếng ngắm nguyện sự thương khó của Chúa và tiếng xì xào bàn tán về cái bầu của cô Bông, không biết tiếng nào trội hơn. “Bông với lại hoa, hoa cứt chó thì có!”  “Hèn chi con gà mái nhà tui cứ gáy hoài!”  “Tui đoán không sai: Cái thứ con gấy con hái mà cười nhả nhớt như rứa thì không ra chi!”  “Cái thằng Tư Lài rập, chơ ai vô đó!” ” Cặp nhau chi  mà như sam!”  “Lửa gần rơm có ngày cũng cháy.”

Và khi cái bụng cô Bông đã lộ hình lộ tướng không còn cách chi dấu diếm được nữa, thì một hôm, sau giờ ngắm sự thương khó Chúa trước giờ ngọ, ông trùm Thành đứng ra giữa nhà thờ dõng dạc tuyên bố: “Sau giờ ngắm mời bà con anh chị em tụ họp tại nhà ông trùm Hoàn để chứng kiến vụ xử ả Bông.” Không nghe ông nói rõ cô Bông phạm tội gì, nhưng mọi người biết ra ngay. Ðám đông tỏ ra hớn hở tỉnh táo, tuy rằng mới trước đó, khi nghe ngắm thương khó, ai cũng bơ phờ, có kẻ còn ngủ gà ngủ gật; và, không cần về ăn trưa vội, dù bụng đã đói lắm, họ hăng hái đến nhà ông Hoàn nghe trùm Thành xử án.

Ðám đông đông nghẹt; có kẻ đứng; có kẻ ngồi chò hỏ hoặc ngồi bệt; có kẻ ở trong; cũng có kẻ đứng ngoài chỏ mặt nhìn qua khung cửa sổ cái tre; lại có những anh xé vách lá lom khom nhìn vào bên trong, nhìn vào một lúc lại quay mặt ra cười hê hê với mấy cô con gái đồng trang lứa, rồi lại đụ má đụ mẹ om sòm. Người ta có cảm tưởng đây là một sòng xóc bầu cua khổng lồ mà người thua chắc chắn là cô Bông đang ngồi bệt giữa nền đất bùn nện. Cô đầu chúi về phía trước như con chim nhỏ đang cố gắng đưa tấm thân nhỏ bẻ chống chỏi với mưa bão đang phủ chụp một mình giữa đồng không mông quạnh. Ví von như thế, có trật bản lề chăng? Quanh cô có cả hàng trăm đồng loại đang rất chú ý quan tâm đến cô, đang cố gắng đưa cô về đường ngay nẻo chính mà! Người đang nhân danh Chúa đưa cô về con đường đạo nghĩa chính là trùm Thành. Và mùa-chay-bốn-mươi-ngày2 năm đó người ta đã bâu xem hàng chục lần tấn tuồng miễn phí ấy. Tôi cũng xem. Tôi lúc ấy là con người của đám đông, một con cừu như hàng trăm con cừu khác, khi thì cười be be, lúc lại cười be bé với mọi người, như mọi người. Tại đang khoái quá mà! Cái khoái của những đứa con nít ném đá vào người mù mà cứ tưởng đó là trò vui. Và cô Bông ngồi khom, người hơi chúi về phía trước; tuy ngước mặt lên không đặng, nhưng cặp mông cô vẫn nây nẩy và hai sợi gân mông cắt hình tam giác vẫn hằn lên rất bình thường. Và như hôm dâng hoa, bà con chòm xóm lại cứ đăm đăm nhìn vào hai cái sợi gân đó. Có kẻ tức ứa máu, thường là mấy bà; cũng có kẻ khoái ra mặt, thì chẳng ai khác hơn là các đấng thanh niên, đàn ông. “Ðồ cái thứ mặt dày mày dạn!” – Mụ Bê, hội trưởng Hội Các Bà Mẹ Công giáo, vừa đưa ống quần quyệt môi trầu đỏ loét, vừa rủa. Không biết kẻ bị rủa là những anh liền ông đang hau háu ngó vào mông cô Bông, hay là rủa chính cô Bông với cái gân mông của cô, bị tấn công tứ thời bát tiết, bằng mọi phương tiện tuyên truyền kỳ cựu nhất, mà xem ra cô vẫn coi như pha.

Cụ trùm Thành hắng giọng, rồi:

– Ả đã gia nhập Hội thánh của Chúa đã lâu chưa?

– ……

– Rứa cái tội ả đã phạm là điều răn thứ mấy, có biết không?

– ……

– Rứa ả đã ăn nằm với ai, và nằm ở chổ mô mà lại có thai như rứa?

– ……

– Bộ dẫm phải nước đái trâu đực chắc?

– …..

Mặt trùm Thành đen trở thành xám như trời sắp dông lớn.

Và cả chục lần lấy cung tập thể như thế trong suốt mùa thương khó, cô Bông vẫn ngồi đó. Cúi đầu. Ðưa chiếc mông có gân ra bình thường như mọi lần, và cô chẳng hề hé môi điều gì. Cô chẳng chịu khai cái người đã làm cho cô có bầu là ai.

Nhưng mọi người đều chắc như đinh đóng cột là Tư Lài chính là cha đứa nhỏ trong bụng chứ còn ai vào đó; bởi ông Thu đã dại dột chứa anh ta trong nhà. Cái giống đàn ông đã trui lửa mà còn cho ở cạnh con gái hơ hớ xuân xanh, thiệt là ngu hết sức, người ta kháo nhau như vậy. Và hễ cứ một kẻ dốc lòng trở lại đạo, dốc lòng theo Chúa là kẻ ấy coi như đã trừ khử được mọi cám dỗ xác thịt hay sao?  Có cái lạ, người người đã nghi Tư Lài là chính danh thủ phạm, mà lại không thấy trùm Thành kêu ra tra vấn chi cả, dù rằng khi làm cái sự ấy chắc chắn không phải chỉ có mình cô Bông; chẳng lẽ anh ta bị cô Bông hiếp dâm?

Vụ án cứ kéo nhây nhưa mãi chẳng thua hội đàm Ba Lê sau này, nhưng người bâu xem vẫn cứ đông.

Thế rồi, một hôm cha Gabriel đi đâu từ ngoài tỉnh về, khi đi ngang nhà trùm Hoàn, thấy có người đông, ngỡ ai đó đang bị bệnh gần chết, cha vội dừng xe lại, tay bưng theo hộp dầu thánh, tất tả đi vào:

– Ai bị bệnh gì vậy ông bà? – Cha hỏi bằng tiếng Việt. (Cho tới lúc viết những giòng nầy tôi chưa thấy người Tây nào  nói tiếng Việt sõi như ngài.)

Mấy người đứng ngoài ú ớ:

– Dạ, dạ…

Trùm Thành từ trong nhà, vẹt người ra hai bên, khúm núm:

– Dạ thưa cha, chúng con đang hỏi tội cô Bông đã có con hoang với ai?

Ông cha tây tái mặt.

Trùm Thành vẫn tiếp tục phân phô:

– Con đã tra hỏi hàng chục buổi mà chị ta vẫn không chịu khai.

Cha Gabriel, người mà các bà ví có cái dáng hiền lành như tượng Ðức Mẹ Lộ Ðức, hét lớn:

– Xe bác ba! Xe bác ba!3

Rồi cha hầm hầm đi ra xe, đóng sầm cửa, rồ máy phóng đi. Mọi người chẳng ai hiểu cha nói gì.

– Rứa, ông cha cố nói chi mi có hiểu không Quang? – Ông trùm Thành thỏ thẻ với thằng hay chữ nhất làng.

– Dạ ngài nói tiếng Tây con làm răng hiểu được, nhưng xem ra cha giận cái chuyện ông đem cô Bông ra xử như rứa…

– Tau làm chuyện phải răng cha lại giận tau mới được chớ?

– Chắc người Tây bên nớ họ khác người mình…

– Khác răng mà khác!? Tây, Ta gì cũng là con một Hội thánh.

– Con không biết, nhưng mới đây hồi vô Sài Gòn thăm cậu con, cậu có dẫn con đi coi phim Pháp. Trong phim có cảnh mấy cô tiểu thư, lưng ong, áo chẽn, ngực lòi hơn nửa, đã vậy còn đeo dây vàng dây bạc có tượng thánh giá nằm lềnh khênh trên vú của mấy ả nớ. Bên mình mà như rứa chỉ có nước tùng xẻo… vú. Rứa mà con thấy các cô nớ vẫn cứ nghiêm trang lên rước lễ như thường. Không thấy cha cố gì quở trách như người mình.

– Người mình phải khác chớ!

– Rứa răng ông trùm khi nãy nói Tây, Ta gì cũng là con Hội thánh.

– Hừm… Thôi, cha đã khó chịu rứa thì thôi!

Nói rồi, ông quay mặt vào trong nhà ra lệnh gượng cuối mùa:

– Thôi cho ả đi về. Từ nay về sau chớ có phạm tội nựa.

Tôi thấy cô nặng nhọc lê tấm thân bầm dập nhục nhằn trên còn đường làng nắng chang chang, và tôi cảm phục cái lòng tin vào Chúa và Hội thánh của cô. Vì nếu không có lòng tin, dù là tin tào lao, vào ông trùm Thành là người đại diện cho Chúa ở cái họ lẽ này, thì làm gì cô phải nghiến răng chịu nhục nhằn rủa sả đến như thế.

Cô đã chịu một cuộc thương khó dai dẳng hơn cuộc thương khó của Chúa Giêsu.

 

Và mọi sự lại trở lại với nhịp sống sau mùa thương khó ấy. Cha Gabriel vẫn ghé qua làm lễ Chủ Nhật, ngồi toà giải tội, và đi săn.

Cha, trước đó và sau này cũng thế, hay đi săn ở láng tranh cạnh rẫy cô Bông, nhất là những lúc cỏ tranh vừa mới đốt, sau những con mưa đầu mùa, có nhiều nai, nhiều mang ban đêm hay từ trong rừng sâu ra đó ăn cỏ non mới nhú và liếm tro tranh có chất muối. Có nai, có mang, thì có cọp đi theo rình mồi. Cha bắn được nhiều nai, mang ở đó; có một lần cha còn bắn được cọp. Những lần trên đường đi làm lễ về, thường là chiều tối, cha hay ghé vào rẫy nhà ông Thu nằm ngay dọc đường lộ, lấy dưa mà cô Bông đã hái và khéo léo ngâm dưới giếng sâu để dành cho cha ăn cho mát. Cha ôm hai tay hai trái dưa; giọt sao chiều sóng sánh trên vỏ dưa theo dáng đi khấp khởi của cha. Người ta thấy bóng dáng cô Bông bận áo cánh ni lông tím hoa cà thấp thoáng như một mảnh hoàng hôn tím thủy tinh sau hàng dậu thưa đan ken với những chùm bông giấy đủ màu.

 

Từ sau độ chịu khổ hình, cô ở luôn ngoài chòi dưa.

Tư Lài sau khi chối bai bải chuyện gió trăng, anh ta không ở chung nhà và đi làm chung với gia đình ông Thu nữa. Anh đã phát riêng được mấy sào rẫy mới, cất được mái nhà tranh, và nghe nói sắp sửa kiếm vợ mới.

Rồi cũng tới lúc cô Bông sinh con; Tư Lài chẳng hề đến thăm, vậy mà không biết căn cứ vào đâu lại lên tiếng chối bạo là đứa con gái chẳng phải con anh ta, vì nó chẳng giống anh ta tí nào.

Hôm rửa tội cho con nhỏ Hoa, con không cha của chị Bông, ông cha Tây không biết kiếm được đâu cho con bé một chiếc áo đầm xa tanh trắng tinh, thêu ren, lại còn có cả dây lưng kết nơ lòng thòng sau lưng. Ai cũng trầm trồ khen ngợi. Có bà còn nói: “Con nhỏ rứa mà có phước!”  “Cố Gabriel thiệt là nhân từ!”

 

Rồi cái câu đồng dao giết người không dao đó cũng cùn lụt theo năm tháng. Và mấy đứa nhỏ hát đồng dao đó cũng đã lớn khôn. Ðứa còn, đứa mất; đứa ở lại làng, đứa xa xứ theo vận nước nổi trôi.

Cái-thằng-tôi, phước đức mười đời, canh me, vượt biên được qua tới Mỹ, và được một cha người Mỹ đỡ đầu. Sau đó tôi lại theo gót cha xin đi tu. Ði tu và quên luôn bao nhiêu chuyện trần thế, có khi quên tiệt, kể cả chuyện cô Bông, và bao nhiêu chuyện khác đã xảy ra trong cái làng An Bình eo xèo mưa gió.

Ngày tháng trôi qua, đã tới ngày tôi được lãnh chức linh mục. Khi ấy tôi lại nảy ý định mời cha Gabriel lúc đó đang ở Inđônêxia sang dự lễ thụ phong của tôi. Ngài, sau khi bị Cộng sản đuổi khỏi KT, nơi ngài đang nghiên cứu ngôn ngữ và văn hoá người Cà Răng, đã xin bề trên sang ở Inđônêxia, trong một vùng cạnh ngôi đền nghìn Phật Pura Berharap. Nghe nói ngài lại chỉ lo nghiên cứu thổ ngữ và đang soạn một cuốn từ điển. Nhưng một số linh mục trẻ Việt Nam, có dịp gặp cha trong những lần cha về Pháp kiếm tài liệu và học hỏi thêm các nhà đông phương học ở đại học Sorbonne về phương pháp nghiên cứu các ngôn ngữ nguyên thuỷ, nói là kỳ này ngài trệ lắm, ý nói là ngài cứ ăn nói chẳng ra một cái hệ thống nào cả. Tôi gởi thư cho ngài, giới thiệu tôi là ai, và mời ngài qua tham dự lễ thụ phong linh mục của tôi, do chính đức giáo hoàng đương kim chủ lễ. Nhưng tôi chỉ nhận được một tấm bưu thiếp của ngài gởi từ Inđônêxia, có in hình ngôi đền Para Berharap vĩ đại, uy nghi nhưng cũng trầm mặc như một ngọn núi toàn khối đá hoa cương xanh xanh thái cổ, với dòng chữ Việt đàng hoàng: “Rất cảm ơn T đã nhã ý mời, nhưng tôi không thể trở lại phương Tây được nữa rồi, vì bóng miếu đền đè nặng trên tôi.”

Sau khi lãnh chức linh mục xong, tôi xin phép đi nghỉ. Tôi tính về Việt Nam thăm cha mẹ tôi ngay để cho hai ngài được nở mày nở mặt vì được diễm phúc làm đấng sinh thành của một kẻ vừa lãnh chức thánh trọng vọng. Nhưng tôi tự dưng lại đổi chương trình, quyết định qua thăm cha Gabriel trước. Dường như những miếu đền cũng bắt đầu đang bao vây đường về cõi rộn của tôi.

Hôm gặp cha, tôi thấy chẳng còn nhanh nhẹn trẻ trung như xưa, mà chỉ thấy một ông tây già nhếch nhác: Váy quấn, mình trần, da héo quắt, và bịt vuông khăn sặc sỡ, trông cha giống một tay hippy già hết thời. Cha ở trong một ngôi nhà tranh hai đầu mái uốn cong như chiếc thuyền, mũi hướng về biển Ðông. Chung quanh rào dậu là những cụm hoa bông giấy đủ màu. Chiều tắt nắng, cha với tôi ngồi dưới dàn hoa giấy trước nhà vừa uống trà, vừa ngắm đền Pura Berharap. Chiều ve,à đền càng xanh rợn, nhưng rồi từ từ mất hết đường nét và chỉ còn là một mảng lờ nhờ như một mảng bùn non khổng lồ ai đó ném toẹt giữa hoàng hôn, và bùn rữa nát dần vào đêm đen thường tại mà cõi thế nào hay. Bỗng cha Gabriel chép miệng:

– T biết không: Tôi đã bị ngôi đền này hớp hồn từ lâu? Ngôi đền xây theo trôn ốc, cao tới mấy chục tầng, phải trèo cả mấy ngàn bậc thang với vô số phật ông, phật bà, nhân gian, ngạ quỉ, súc sinh suốt dọc. Có cái lạ là các vị bồ tát: có vị là đàn ông mà lại mang bầu; có vị là đàn bà vú vê mà lại cằm râu; có vị khóc; có vị cười; có vị chổng mông, có vị nằm ngửa; lại có vị nửa nhà sư, nửa ma cô; có vị nửa ni co,â nửa gái giang hồ. Và khi trèo lên được chổ trên cùng, gọi là thiên thượng, người ta đụng vào cái hụt hẫng, thấy là mình dù qua muôn vạn kiếp, chỉ là hư không, vì cái tầng thiên thượng ấy chẳng phải là mái bằng mà lại là một vực sâu khoét luồn qua các tầng kia mà khách du nào biết, bởi vì những bức tường che chắn suốt đường lên. Và khi nhìn lên trên thiên không, khỏi phải nói, ta lại đụng cái hư không chẳng cùng. Pourquoi verte l’Éternité 4? – Thiên thu ơi, sao ngươi xanh màu lá? Buốt giá quá chừng chừng. Ngoài ra có một chi tiết về ngôi đền, mà các triết gia hiện sinh biết được chắc là khoái lắm: Ngôi đền khởi đầu có tên là Pura Menberharap có nghĩa Ðền thờ Thờ sự Thất vọng, Temple de l’Adoration du Désespoir đàng hoàng đấy nhé! Vị minh quân bỏ tiền ra xây và các đời vua sau kế tiếp nhau trị vì một nước Inđônêxia thịnh vượng, mà vẫn chịu cái tên đền do sư tổ Binok đã đặt như thế. Vậy mà chỉ cách đây mấy năm, không biết vì cớ gì mà mấy vị sư thông thái đời nay lại đổi ra là Pura Berharap, có nghĩa là Ðền thờ Thờ sự Hi vọng, Temple de l’Adoration de l’Espoir. Trời mới hiểu được mấy ông sư thời đại mới…

Và T cũng biết đấy, mấy chục năm tôi hoạt động truyền giáo Việt Nam, nếu xét theo con mắt người đời tôi đã là kẻ thành công đấy chứ: Lập được hai làng dinh điền thịnh vượng cho dân Công giáo di cư; xây được hai trường trung học lớn; lập thêm một trung tâm văn hoá Cà Răng và còn hệ thống hoá chữ viết cho họ, lại soạn cả cuốn từ điển Cà Răng – Pháp đồ sộ… Nhưng T có biết lúc này tôi lại nhớ gì nhất không?

Tôi nhìn vào mắt cha dò hỏi, đoán:

– Những cuộc đi săn?

Cha trả lời bằng tiếng Pháp:

– Non, les melons frais de Mademoiselle La Fleur –  (Không, những trái dưa tươi mát của cô Bông.)

 

Oslo, 26.10.00

 

(1) Ðiều Răn Thứ Sáu: Một trong mười điều răn của đạo Công giáo. Gồm những điều cấm về các loại liên hệ tính dục nam nữ.

(2) Mùa chay bốn mươi ngày, bắt đầu khoảng giữa tháng Hai, mà tuần cuối cùng là tuần thánh, người ta tổ chức  ngắm.  Ngắm: Suy niệm việc Chúa Giêsu chịu tử nạn. Có hai loại ngắm: Ngắm mười lăm sự thương khó và ngắm rằng. Nhạc điệu của hai thể ngắm rất phong phú, cung điệu bi ai, lời giản dị dân dã. Tương truyền là các cha dòng Tên đã sáng tác từ những ngày đầu thành lập Giáo hội Công giáo Việt Nam. Không biết tới lúc này có ai đã bỏ công nghiên cứu lịch sử và nhất là ký âm hai thể ngắm (và một số kinh khác) đầy tính dân ca nhà đạo đó chưa. Mong! (NVT)

(4) Xe bác ba…: C’est barbare!: Thiệt là mọi rợ! (tiếng Pháp)

(3) Pourquoi…:  Tôi không còn nhớ ai đã dịch tuyệt vời câu thơ này của nhà thơ Pierre  Emmanuel.

NTNV 4 – Vườn Mai Sau

Nguyễn Văn Thà

Bilderesultat for vườn ổi

Thầy Ðược có hai chuyện mà đi chỗ nào ông cũng khoe, đó là cô con gái đầu đôi tám xinh đẹp và vườn ổi xá lị.

Ông còn khoe thêm nhiều chuyện nữa, ví dụ, ông có bà vợ trắng trẻo và cô con gái lai Tây; hoặc vườn ổi xá lị quý lấy giống của một bà đầm, vợ chủ đồn điền cao su Long Khánh đưa từ Madagascar sang, vì ông đã chữa cho bà lành bệnh viêm gan ác tính đến bác sĩ nhà thương Tây cũng phải bó tay; hoặc ông đã từng làm y tá kháng chiến chống Tây, bộ đội bị mấy cái bệnh thổ tả, kiết lỵ, thương hàn, sốt rét ngã nước ông chữa cái một, lại còn chữa cho cả gia đình tướng Giáp. Xứ An Bình, nơi ông định cư từ những ngày đầu mới thành lập, là một ấp dinh điền nằm giữa rừng thiêng nước độc, và dân ở đó làm thì có, ăn thì không, cho nên hay bị những chứng bệnh hiểm nghèo kể trên.

…Dù có ghét cái tính phét lác của ông, nhưng người ta vẫn cần ông, nhất là khi số người bệnh nhờ ông mà lành khá nhiều. Những người lớn tuổi vẫn đàng hoàng gọi ông là “thầy” Ðược; đám trung niên, tuổi trẻ lại chịu khó thêm cái từ “láo” vào danh xưng đó, cộng với một chuỗi cười hề hề khi ngắn khi dài tuỳ theo cái trọng lượng đạo đức mà bọn họ ngầm gán cho chính mình.

Thực ra, ông Ðược thường chỉ nói chuyện trời bể những dịp ông đi chữa bệnh; vừa chờ cho nước sôi sát trùng ống và kim chích, hoặc vừa cưa ống thuốc, vừa nói. Thường thì ai cũng cười, kể cả bệnh nhân. Chích xong, lấy tiền, ông về ngay, bởi ông bận đi chữa những nhà khác, ở ngay trong ấp An Bình hoặc ở những ấp kế cận; hay ông phải về chăm sóc vườn ổi xá lị.

Ông lại thích tìm tòi những loại thuốc Tây mới để trị bệnh ngày càng hiệu quả hơn. Cho nên, những dịp Trực về thăm gia đình, ông hay mời lên nhà chơi, đọc dùm toa thuốc toàn chữ Tây; ông hỏi kỹ công dụng và liều lượng. Khi về Trực được ông đích thân ra vườn hái cho mấy trái ổi xá lị to hơn những nắm oản độ lượng nhất của thầy tăng, và no tròn, và bóng mỡ. “Biếu ông bà của chú ăn cho vui.” , tuy rằng bố mẹ Trực lúc đó răng cộ chỉ còn đôi chiếc, cơm còn phải nuốt trộng nói chi ổi.

Và đôi mắt long lanh, nụ cười long lanh của cô Hoa sau làn lá ổi biếc.

Ðộ rày cặp vú của cô Hoa căng, nây nẩy, trội hơn hẳn những cặp vú trái cau, quả quýt của những cô gái trong cái ấp An Bình triền miên thiếu ăn. Thân hình cô Hoa cao ráo, khoảng thước bảy chớ không ít, và với một cặp vú như thế, cô quả đúng như những lời khoe của thầy Ðược. Vào thời ấy, giữa một nơi thôn dã lem luốc như cái xứ An Bình, lai Tây với cái nghĩa cao ráo, da trắng, mũi dọc dừa thì ngon lành rồi; nhưng đôi vú quá khổ, quá Tây của cô Hoa thì người ta lại không ưa, bởi chúng bao hàm một cái vẻ đĩ thoã . Mà đĩ thoã trong một cái xứ đạo nhà quê thì thiệt là phiền, bởi người ta dùng nhiều thì giờ, quá nhiều thì giờ để bình phẩm, để hướng dẫn người khác (ý nói các cô) sống cho có đức hạnh. Ðức hạnh đây có nghĩa là làm sao đừng làm xốn con mắt các bà già trầu, đừng làm gì để cho cái bọn con trai nảy ra cái tà ý rờ rẫm, đôi khi chỉ rờ rẫm được bằng miệng. Tội phúc luẩn quẩn chỉ có thế.

Nhưng đôi vú của cô Hoa làm sao cho chúng xẹp lại được?

Cô Hoa hay đến chơi rồi ở lại ngủ với chị Tâm của Trực; nhất là những hôm bố mẹ Trực đi thăm cháu ngoài tỉnh. Chị Hoa được phép ông Ðược cho đi chơi rồi ngủ lại đêm như thế là vì gia đình của bố mẹ Trực được kể là một gia đình đạo hạnh, chính ông Ðược đã nói như vậy. Tuy người đời chung chung đánh giá ông thấp (vì cái thói thực ra nói trạng nhiều hơn là nói dối của ông), nhưng ông lại là người biết chăm lo chuyện nết na cho cô con gái (chỉ cho chơi với chị Tâm), và lo cả chuyện tương lai ăn trắng mặc trơn cho con mình, (cô Hoa là người con gái duy nhất trong ấp được đi học trường trung học.) Ông Ðược chịu khó đưa đón con gái mình đi học trường tỉnh cách ấp An Bình cả mươi cây số. Cô học đến lớp đệ tứ. Và sau đó qua một khoá y tá cấp tốc, cô đường hoàng trở thành một cô y tá trẻ làm trong trạm xá y tế của ấp. Trạm xá có một tủ thuốc trị các bệnh thông thường khá tốt, khá đầy đủ, vì toàn là thuốc Mỹ viện trợ theo kế hoạch xây dựng nông thôn, cho nên, tuy chỉ là một y tá được huấn luyện cấp tốc, cô được kể là người thầy thuốc khá mát tay.

Và cô có cái nhan sắc Tây lai.

Ông thầy Ðược có đủ lý do để khinh thường bọn thanh niên vai u thịt bắp trong làng.

Thực ra ở trạm xá cô không phải làm gì nhiều; cô có nhiều thời giờ rảnh để đọc tiểu thuyết diễm tình, từ tiểu thuyết của Nghiêm Lệ Quân, Lê Xuyên, Quỳnh Dao cho tới Mai Thảo, Nhã Ca. Trái với lời giảng của cha xứ. Lời của cha thì lượm lặt lời của những tiên sanh tận đâu bên trời Tây, nhưng ý thì cũng đại khái như các cụ An Nam ngày xưa: “Ðàn ông chớ đọc Phan Trần. Ðàn bà chớ kể Thuý Vân Thuý Kiều.” Một số cuốn cô mua những dịp lên tỉnh lãnh lương, lãnh thuốc, một số cô mượn nhà Trực.

Những đêm cô Hoa đến chơi ngủ lại với chị Tâm, hai cô cứ cười rúc rích cả đêm trước hiên; vào buồng vẫn còn cười.

Có đêm, như một đêm tháng Ba giáp mùa mưa Bảy Mươi Lăm, không khí oi nồng râm rấp, hai cô khuya khoắt rủ nhau đi tắm, và cười xì xào chi đó. Tiếng nước xối nghe rào rạt trên bụi lá từ bi được dùng như màn vây che nơi tắm rửa của chị Tâm. Cái mùi hương của bụi cây thuốc từ bi quyện với mùi đất khô tạo nên cái mùi ngầy ngật, rậm rật. Và ngoài song cửa, một bầu trời đêm đen, sạch sẽ, rộng rãi ôm ấp, chất chứa bao nhiêu niềm dâng hiến. Thinh không nhấp nhánh mời gọi tựa vai, mời gọi má ấp môi kề, ngả vào lòng trời bình yên vô lượng nhung đen. Trời đêm vẫn dàn trải ra đó cho người thế thụ hưởng, như một chị giang hồ nhân hậu vô ngôn, hay một nữ tình nhân Ả rập dấu mặt sau lớp khăn trùm, nhưng làn vải nào ngăn nổi ý yêu đương từ đôi mắt trinh nữ xuyên thấu Càn Khôn. Lại tiếng nước dội. Tiếng nước không còn nghe lanh canh như trước nữa; lá như đã no thoả nguồn sinh, đất như đã thấm nhuần mưa móc ân sủng. Sột soạt xiêm y. Sột soạt lá. “Mình đi ngủ Hoa hè!”  “Ngủ chi được mà ngủ! Ðêm bức bối như ri!”  “Lạ hỉ, tắm rồi mà vẫn không ngủ được, hay là mi tơ tưởng chuyện chi?” Tiếng thụi vào vai nhau: “Bậy nà!” Và tiếng dép lép nhép đi qua nhà bếp chổ Trực đang nằm võng, tới trước cửa nhà trước, rồi vào buồng chị Tâm. “Trời nóng như ri, thằng Trực chắc chẳng ngủ được. Mai nó hết phép rồi. Về với đơn vị đóng đâu ngoài sông Thạch Hãn…”  “Hả, chị nói sao!?”

 

Hôm nay là ngày kỷ niệm thuyền của nhóm anh Dung được tàu Na Uy vớt, ngày mà anh em đều gọi là ngày lễ Phục sinh của riêng họ, bởi vì nếu không có tàu vớt đúng lúc, thì chỉ cần khoảng nửa tiếng sau thuyền đã gặp phải cơn bão dữ dội Suzan. Hú vía, cho nên mỗi năm anh em trong thuyền, cùng bầu đàn thê tử, đều hẹn nhau, trước đi kính viếng vị thuyền trưởng đã cứu tử, sau đó kéo nhau về họp mặt tại nhà một người đi cùng chuyến. Toàn là dân cùng xứ đạo An Bình. Trực, tuy đã tỵ nạn qua Na Uy trước họ đã lâu, từ năm bảy mươi lăm, cũng được mời tham dự. Ðủ thứ kỷ niệm để nói. Có những chuyện, những nhân vật còn ở quê nhà, cũ kỹ đã mấy chục niên. Hôm nay là phiên gia đình anh Dung đứng ra tổ chức buổi họp mặt; vả lại, năm nay, anh mới đi Việt Nam về, bà con lại càng nóng lòng đến nhà anh, vì đây là dịp tốt để hỏi chuyện quê nhà; nhiều chuyện để hỏi, nhiều người để nhớ.

Có anh ngồi đằng góc vừa nốc bia vừa hỏi:

– Ông thầy Ðược láo nay còn sống không, anh Dung?

– Ông ta mới chết năm ngoái. Ði chích thuốc rong, bị cái tụi ở ngoài Căn Cứ Năm, Căn Cứ Sáu đập chết bỏ ngoài lộ. Thiệt tội cho ổng! Hồi trẻ tụi mình cứ nhạo cười ổng, nhưng cũng nhờ ổng mà ông già tui mới thoát khỏi cái bệnh thương hàn nhập lý.

Một vài tiếng xầm xì của các bà: “Ai thiệt là ác đức!”  “Hay cũng tại cái tính nói phét của ổng chơ gì!”  “Nghĩa tử là nghĩa tận, đừng có nói như vậy, tội vong linh người đã khuất.”

Rồi anh Dung, vỗ tay ra hiệu cho mọi người im lặng, đoạn lễ phép nói với Trực:

– Thôi, mọi thứ đã sẵn sàng, xin Cha làm dấu ban phép lành, rồi chúng ta vừa dùng bữa vừa nói chuyện, phải không cha?

Trực chưa kịp đáp lời, một bà nhìn cha Trực cười sung sướng hãnh diện:

– Ý Chúa thiệt là nhiệm mầu! Cha, trước đi lính làm sĩ quan, tưởng qua bên này làm ông này bà nọ, ai ngờ cha lại được Chúa gọi theo chân Chúa. Chúng con láng giềng cũng được thơm lây.

Trực chậm rãi trả lời:

–  Nhiều lúc những cái điều trọng đại là do tình cờ mà thôi, bà ạ! Những ngày đầu chân ướt chân ráo qua Na Uy tôi tình cờ được một ông cha bản xứ đạo đức thánh thiện hết sức giúp đỡ; gần đèn thì sáng, đâm ra tôi thích làm linh mục. Giá mà tôi lại được một bà đầm nào đó bảo lãnh, mà bà lại có con gái đẹp, biết đâu chừng bây giờ tôi cũng con cái đầy đàn như ai. Một bầy con lai.

Người đàn bà vừa nguýt cha Trực vừa cười:

– Cha cứ nói rứa!

Bỗng có một anh, trước là dân chài lưới vai u thịt bắp dân An Bình, hỏi lớn:

– Còn cô y tá Hoa giờ ra sao rồi, có gia đình gì chưa, anh Dung?

– Chà, tới giờ này chú mày vợ con đã đùm đề mà còn nhớ tới cô ta à…!?

– Tầm bậy nà!

– Thì cô ấy cũng còn sống lây lất qua ngày với thằng con trai hoang đẻ sau hồi loạn lạc Bảy Lăm mấy tháng! Hồi tui về, thấy cô ta mở quán cà phê dưới vườn ổi xá lị, đêm có chăng đèn chăng đóm coi cũng được đại đi! Khách khứa khá đông. Toàn tụi thanh niên đàn ông như tụi mình.

– Chà, tụi nó lại mê cái bộ vó của cô ấy chơ gì!

– Cái thằng nói bậy nói bạ. Có Cha đây mà mi thiệt là…

Trực sượng sùng:

– … Không sao! … Thôi, chúng ta bắt đầu đi… nhưng làm phép xong… tôi bận, tôi xin kiếu…

– Ủa, cha nói là cha sẽ ở đây chơi với chúng con lâu mà! Con có đưa máy về quay cảnh làng xóm của mình. Từ nhà thờ, đài Ðức Mẹ, đến cái chợ chồm hổm, quán cà phê dưới vườn ổi xá lị cô Hoa…

–  Nhưng, xin lỗi, tôi phải về…

Và cha Trực ra về. Vội vã khác thường như phải đi làm phép xức dầu thánh cho ai đó đang độ lâm chung.

 

Bergen, 8. 10. 01

 

(1) Oản: Xôi hoặc bánh khảo được nén chặt vào khuôn, đóng thành khối nhỏ hình nón cụt để cúng. (Theo Thích Thanh Từ). Nhân đây tôi cũng xin mạo muội lý giải câu “Thằng Bờm có cái quạt mo… Phú ông xin đổi nắm xôi Bờm cười.” Người Quảng Bình hay gọi vú đàn bà con gái là nắm xôi, ví dụ, “Chà, nắm xôi con nớ to hè!”. Khi hiểu nắm xôi của phú ông chính là cặp nhủ hoa của bà Ba, bà Bốn của ông phú hộ, mà thằng Bờm lâu nay thèm nhỏ rãi, thì mới lý giải hợp lý, mới diễn tả được cái ý sảng khoái bùng vỡ ra ở câu kết của bài ca dao trứ danh.

(2) Cây thuốc từ bi: Tên một loài cây thuốc thân thảo, mọc thành bụi cao, dùng để làm lá xông, hoặc giã vắt nước uống chống đau bụng. Mọc rất mạnh kể cả vào mùa khô. Lá toả mùi thuốc bắc, nhất là vào những đêm oi bức.

(3) Làm dấu ban phép lành: Người Công giáo hay làm dấu thánh giá, hoặc cả làm dấu thánh giá và đọc một kinh ngắn, trước khi dùng bữa. Trường hợp có linh mục hiện diện, linh mục ban phép lành cho bữa ăn.

(4) Làm phép xức dầu: Còn gọi là bí tích xức dầu thánh cho người tín hữu Công giáo hấp hối; có thể bao gồm cả việc xưng tội để làm hoà với Chúa, và lãnh Mình Thánh Chúa (bánh bột mì không ủ men, mà người Công giáo tin là có chúa Giêsu trong đó). Tất cả để cho đương sự được an ổn tinh thần, sẵn sàng mà gặp Chúa mà người Công giáo tin là  người Cha nhân từ nhưng cũng là vị Thẩm phán công minh.

 

 

NTNV 3 – Người Thích Nhìn Vú

Nguyễn Văn Thà

Bilderesultat for black girl art statue

Anh Y Ban, chủng sinh người Rađê, học tiếng La tinh và tiếng Pháp mãi không vào, nhưng anh lại rành tới ba thứ tiếng Thượng. Thời gian học chung ở chủng viện Phụng Sự, tôi tò mò học với tiếng Rađê với anh; và rồi  lỏm bỏm cũng được đôi câu.

Mùa Hè Ðỏ Lửa Bảy Mươi Hai, một ông cố tây, linh mục nghĩa phụ của anh, tới thăm anh. Cha cũng biết nói tới ba thứ tiếng Thượng như anh Y Ban, nhưng cha nói sõi tiếng Ba na nhất vì cha đang coi sóc một xứ người Thượng Bana. Anh nói trôi chảy tiếng Bana với cha, khác hẳn cái vẻ khổ sở trong những giờ sinh ngữ, cổ ngữ. Một người học dốt như anh đáng lẽ đã bị đuổi từ lâu, (không biết tại sao trong các nhà dòng người ta hay dùng cái động từ kỳ cục này) , nhưng tôi nghĩ vì anh hiền lành, quá hiền lành so với các chủng sinh người Kinh, nên cha giám đốc vẫn giữ anh lại. Cha tây người gầy gò, tóc đỏ bù xù, không biết tóc vốn đỏ hay đỏ màu đất Tây nguyên; tóc thì không chắc, nhưng cái quần tây ka ki vàng và chiếc áo sơ mi trắng lấm lem màu đất Tây nguyên thấy rõ; tay cha đeo một vòng đồng Thượng; lưng còn đeo cả chiếc gùi khơi khơi đứng giữa cơ ngơi chủng viện lúc đó mới xây xong mà lối kiến trúc, tuy người vẻ kiểu nhà đã cố tạo cho nó một cái vẻ khó nghèo theo tinh thần Phúc Âm và lời khấn khó nghèo, nhưng khó mà dấu hết được cái vẻ sang cả: La pauvreté, c’est riche1. Cha đến từ núi rừng với những con người mà mới đây thôi vẫn còn nguyên sơ như thời Sáng thế. Nhưng bây giờ, những người Thượng ấy, vốn đã tơi tả, nay càng tả tơi thêm trong một cuộc chiến giữa người Kinh với người Kinh kéo dài đã hơn hai mươi năm. Trâu bò húc nhau ruồi muỗi chết. Ruồi muỗi, người Thượng. Người Thượng, ruồi muỗi. Ai trâu bò, ai ruồi muỗi? Trong đôi mắt của cha tôi thấy bom đạn và những tiếng khèn cố vươn, nhưng vươn không nổi giữa núi rừng Tây nguyên âm u nghiệt ngã.

Hôm đó cha không vào nói chuyện, thường là về lý tưởng tu trì, với các chủng sinh trong giờ huấn đức như mỗi lần có các giám mục, các linh mục, đặc biệt là những vị người Tây, đến thăm chủng viện, mà cha chỉ đứng trước hành lang cầm tay anh Y Ban nói chuyện, ra chiều an ủi điều gì đó; và anh lặng lẽ nhìn cha. Ở với anh trong chủng viện đã hơn năm năm, tôi chưa thấy anh khóc hoặc bộc lộ một hình thức tình cảm nào quá mức. Nơi anh người ta thấy một dáng núi vô tâm, một ngọn núi mà, thiện nam tín nữ của các thứ tôn giáo được trang bị bằng những thứ bùa phép như Bát Chánh Ðạo, Mười Ðiều Răn…, đã và đang cố sức trèo lên mà vẫn cứ rớt xuống hoài. Tôi đến bắt tay chào cha và nói với cha đôi câu tiếng Rađê tôi học mót anh Y Ban; nhờ đó tôi biết tên cha là Giovanni, và quê cha ở Toscana; và dĩ nhiên cha là người Ý, (chi tiết này và một số chi tiết khác anh Y Ban đã cho tôi biết từ lâu.)  Cha có vẻ thích thú khi nghe tôi nói tiếng quê hương thứ hai của cha. Và cha ra đi mang theo trên chiếc gùi của cha, mà không biết, một nỗi khát khao mới chớm trong tôi.

Kỳ nghỉ hè năm ấy, tôi không về quê làm ruộng như mọi năm, mà lại nãy cái ý lên thăm xứ Thượng của anh Y Ban, thăm và không muốn báo trước. Không biết sao lúc đó tôi cứ thích đi cho bằng được, mặc dù, vì tình hình chiến sự lúc đó, chính anh phải ở lại chủng viện. Có một động lực nào đó cứ thúc tôi, đẩy tôi, thật mạnh, về núi rừng Tây nguyên hùng vĩ đang vào mùa hủy diệt. Tuổi trẻ vốn nồng say hơn mọi thứ rượu trần gian, cụ Goethe đã từng phán như vậy; mà rượu ai cũng biết là nó làm người ta tàng tàng!

Tiếng súng ầm ì suốt quốc lộ loang lỗ, lầy lội, đầy “ổ trâu”; nhưng con đường từ quận Ðắc Tô vào buôn của anh Y Ban mới thực sự bầm dập thương tích chiến tranh: đường rừng đất đỏ nham nhở vết thương, tán cây bị bom phạt tơi tả, những xác cán binh Bắc Việt chưa kịp nhặt còn nằm sấp mặt cạnh những hố bom, ruồi nhặng dưới ánh nắng trưa lóng lánh như vô số ngọc quý đính trên lớp quân phục xanh xanh màu lá của họ. Không hiểu sao tôi chẳng cảm thấy sợ hãi; cứ hăm hở đi như những ngày thơ bé, khi đọc truyện Kinh Thánh Bằng Tranh, mải miết lướt qua các trang để xem trước những trang minh họa các trận đánh giữa dân Do Thái với những giống dân Canaan bản địa. Ai nói hoả ngục không hấp dẫn, ai nói tàn phá không gọi mời? Tôi lúc bấy giờ đã là một thanh niên mười tám tuổi, nhưng thực ra gã trẻ tuổi ấy chỉ là một thằng bé con đang mở to con mắt nhìn giòng lịch sử của dân tộc mình, một lịch sử máu xương quá lớn với những mảng màu chiến tranh sắc mạnh đến nổi đôi lúc nó cứ ngỡ cuộc chiến ấy chỉ như một trò chơi của những đứa to đầu mà dại ném vào nhau những nắm bùn đen đỏ; các anh lính, như những anh cán binh Cộng sản đang nằm sấp cạnh cội cây, chỉ là những chú bé chơi nghịch đã đời, nằm ra đó nghỉ mệt, chờ về nhà nghe một lời quở trách của mẹ, một cái bạt tai của cha, trước khi quay quần ăn bữa ăn tối, hay như anh lính Quốc gia đang đăm đăm nhìn xuống giòng nước dưới chân cầu tôi sắp đi qua đằng kia; tôi dám chắc là lúc nầy anh chẳng nghĩ nhiều về trận đánh mới xong: một con cá lóc trui, một tô canh chua, một buổi chiều nắng tắt nước chè xỉa răng xua muổi vu vơ lang thang trong trí nhớ. Anh lính quay lại thấy tôi, mặt sắt đen sì, nhưng cái mặt sắt ấy rớt ngay nhường chổ cho nụ cười hiền lành phô mấy chiếc răng vàng miền Tây:

– Chú em đi đau đó?

Tôi ngạc nhiên khi nghe một câu hỏi thanh bình dân dã giữa vùng chiến trường khói súng chưa tan.

– Dạ, em đi vào buôn Ða Rưng, thăm ông cha tây.

– Chú em dâng đi tu phải hông?

– Dạ.

– Tui đoán hỏng sai. Tui cũng có thằng em đi tu như chú mài. Thẳng tu ở tiểu chủng diệng Dĩnh Long… Cách đay máy tiếng tui có tháy ong cha tay đạp xe woa đay. Mà thôi, dô trong bót nài làm bậy miếng nước trà cho ắm bụng chờ cha dìa, ổng chở chú dô trỏng luông… Tui thấy cha cứ đạp xe đi làm phước đau trong mấy cái buông tậng trong rừng xa woài. Cha thiệc là con ngừi hy sanh quá chừng chừng! Cứ đi như dậy có ngày mấc mạng. Mấy thằng Diệc Cọng thế nào có ngài cũng bắng cha bể đàu. Tụi nó có coi ong cha ong cố ra cái gì đau!

– Có chứ anh Hai: cha mà lại cha tây đố anh chàng Việt cộng nào dám bắn. Anh không biết đất Pháp là đất dụng võ số một của mấy người lẻo mép. Cho nên không lạ gì mấy ông Việt cộng chọn Ba lê làm nơi thương thuyết. Ðụng vào mấy ông cố tây là có chuyện lớn.

– Hèng chi thấy cha đêm hôm cứ đi khơi khơi. Mấy thằng du kích chắc cũng biết dạy.

– Chúng nó thì biết cái gì, chúng chỉ thi hành lệnh của mấy tay đầu sỏ trung ương.

– Chú em nói có lý đó chơ! … Mà nài, nghỉ hè mà đi chi vô trỏng cho nguy hiểm, dả lại ở trỏng buồng thúi ruộc!

– Dạ, tại em thích.

– Kỳ hong!? Mà sao không báo trước cho cha ra đóóng?

– Dạ, tại em thích như vậy.

– Lảng òm!

“Thôi, dô trỏng thăm cha rồi dìa cho mao!” là câu dặn dò cuối cùng của anh lính, trước khi tôi trèo lên xe đạp để cha Giovanni chở về.

Cha nhận ra tôi ngay; nhưng khi biết được mục đích của chuyến đi có vẻ không giống ai của tôi, xem ra cha không có vẻ ngạc nhiên và hình như cha cũng không rảnh trí để mà ngạc nhiên. Cha chỉ buông thỏng: “Bene1!“, rồi lầm lủi đèo tôi đi, dõi theo bóng núi phía trước đang đè dần rừng chiều; và áng chừng nó cũng đang trùm lấp tâm tư của cha Giovanni và của tôi, một kẻ đang hăm he trở thành như cha. Chúng tôi là những thành viên của một bộ lạc buồn, bộ lạc linh mục, những kẻ phải tự tha hoá mình: Alter Christus3. Những kẻ phân thân mấy ai hạnh phúc. Chúng tôi cũng có những chiến trường và thường chúng tôi là những kẻ thua trận. Mang đầy thương tích tìm ngưỡng cửa Thiên Ðàng. Và thường là tìm lộn. Ôi, Con Người và Bóng Tối! Ai vẽ chi Thiện Ác đôi đường cho chúng tôi vất vả?

Tôi biết người Âu châu, nhất là những vị có chữ nghĩa thích sống một mình, và tôi đoán là cha Giovanni cũng thích như thế:

– Trình cha, con chỉ muốn ở với cha vài ngày, rồi sau đó con muốn được ở với dân Thượng. Con muốn nhảy xuống vực thẳm để xem vực thẳm nó ra làm sao?

Câu nói đầy chữ nghĩa thời thượng từ cái đầu đầy ắp những tư tưởng hổ lốn mà tôi vừa học được trong chương trình triết học ôm đồm lớp mười hai ban văn chương, chương trình Pháp hồi đó, bây giờ nhớ lại còn phát ngượng, vậy mà xem ra cha lại tỏ ra tâm đắc khi nghe tôi nói như thế:

–  Bene! Kỳ nghỉ hè này là của chú, xuống vực thẳm hay lên thiên đường ấy là quyền của chú. Người ta có quyền chọn cho mình một cửa hẹp. Paradiso4, abisso5… Abisso, paradiso…

Tôi nghe tiếng vọng từ vực sâu; hay là cha bị mắc chứng nói lảm nhảm mà một số người Âu châu mắc phải khi phải sống lâu ở vùng nhiệt đới?

Tôi quyết định sống mùa hè ba tháng giữa người Thượng, và chỉ ghé qua nhà xứ khi cần. Tôi không muốn khuấy động cuộc sống lẻ loi nhưng bình tâm mà có lẽ cha đã cố gắng bao năm mới được. Vả lại, tôi cũng đã quá ngán mấy cha mấy cố. Tôi đã sống với họ đã quá lâu, những năm làm trò giúp lễ và cả bảy năm trong chủng viện. Tôi bắt đầu thèm nghe ẩn ngữ loanh quanh thay cho những bài Phúc âm, Thánh thư được xếp đặt chặt chẽ theo lịch trình phụng vụ quanh năm và những bài giảng lý luận chặt chẽ đôi lúc đến tội nghiệp. Giả sử có Ông Nhà Trời nào đó tình cờ ngao du qua cõi địa cầu nầy, khi nghe mấy con kiến hình người múa may chữ-nghĩa-cõi-trên như thế, hẳn phải cười bò lăn bò càng. Cái thằng người trong cái cõi bụi bặêm này chỉ là con rối của một cuộc chơi, “trò chơi Con Tạo”, làm gì mà lớn chuyện vậy?

Cha Giovanni kiếm cho tôi được một cái nhà sàn khá xinh xắn, tươm tất, nguyên là của một anh lính Thượng nay đã mất tích. Chị vợ nay ở đâu, tôi hỏi. Signora ấy bồng con bỏ đi nơi khác rồi, cha trả lời. Cha Giovanni cho tôi những thứ cần dùng, kể cả một chiếc mùng trắng tinh, và một cái áo len còn thơm mùi nắng đồi nho xứ Toscana mà mẹ cha vừa gởi. Tôi vui với hạnh phúc mới. Nằm nghe tiếng chim len lỏi chật vật giữa tiếng bom đạn. Tiếng chim và tiếng bom đạn tranh nhau khoảng không gian dành cho con người; và coi vậy, chứ so với tiếng chim, tiếng bom đạn có vẻ yếu xìu; nói chi tiếng muôn loài côn trùng về đêm, bom đạn lại càng thua. Bom đạn huyênh hoang gầm gừ, nghe đến tội nghiệp như một gã say chửi bới om sòm nhưng lòng đã bắt đầu xuội lơ theo lời dỗ dành của người vợ nhẫn nhục, theo những tiếng khóc rấm rứt của mấy đứa nhỏ thập thò sau bếp. Càng về khuya bom đạn càng thua đậm. Nhưng rồi càng ngày tiếng bom tiếng đại bác không còn là tiếng vọng về: Chúng đã gần lắm. Chiến tranh như loài cọp đói sổng chuồng: Nó sắp sửa vồ lấy những mảnh hình nhân đen đúa tơi tả trùng vây trong giác trường người Kinh.

Nhưng cuộc sống trong bản vẫn như một vườn trẻ. Sáng sớm đàn ông phì phèo ống thuốc dài ngoằng tàn tàn vác rựa, mang gùi ra rẫy; chân tay mốc đen, khẳng khiu, cáu bẩn. Tôi chưa thấy anh đàn ông nào có được màu da đồng đen bóng lộn như được tả trong các thiên hùng ca người miền núi. Cái thế hệ của những tráng sĩ Ðam San e chừng đã tàn lụi dần vì những cái trò đểu giả lớn nhỏ của lớp lớp người Kinh Nam cũng như Kinh Bắc. Nhưng những người thiếu phụ và và các thanh nữ vẫn còn cái vẻ màu mỡ của mẹ đất: eo thon, mông nở, vú đồng bóng nây nẩy. Thượng Ðế dường như ban cho những người đàn bà Thượng nhiều sinh lực hơn đàn ông. Và tâm hồn họ, đàn bà lẫn đàn ông, vẫn còn nguyên sơ chẳng thua gì những em bé gà gật trên lưng mẹ địu hay như những cháu vừa đi lẩm chẩm vừa mút tay tò mò nhìn vào mái nhà sàn tôi. Thân thể họ cũng trần truồng như trẻ thơ. Xem ra cha Giovanni và các vị tiền nhiệm của cha làm lơ không  dạy – hoặc bắt – con chiên của các vị phải mặc quần mặc áo che thân như là một cử chỉ của con người tỏ ra xấu hổ sau khi thủy tổ loài người ăn trái cấm từ cây-biết-lành-biết-dữ. Cái chuyện trong sách Sáng Thế Ký được viết ra để giải thích tại sao con người lại mặc quần áo, viết bằng tiếng Hêbơrơ, cho những người Hêbơrơ, bởi một vị Hêbơrơ nào đó, xem ra trật rơ hết trơn ở cái xứ Thượng cà răng căng tai này.

Và tôi đang tập làm người…Thượng.

Nằm nhà sàn vài ngày, tôi bắt đầu đi tàn tàn vào các nhà sàn quanh quanh chơi; và nhờ cuốn đàm thoại Pháp – Bana của cha Giovanni cho mượn, tôi bắt đầu tập nói với họ; nói ngọng, làm mấy thằng nhỏ cười rung rinh cu dái, mấy chị rúc rích, vú câng thấy rõ. Khi nghe tôi nói nghịch, có chị trèo nhanh lên nhà sàn núp sau cánh cửa nhìn lén tôi, có chị nép sau những bụi hoa quỳ lem nhem đất đỏ, (hoa quỳ mọc tràn lan như cỏ dại, chẳng báu giá gì đâu!), cười hinh hích chẳng khác gì các nàng người Kinh trong các cuốn tiểu thuyết bậy bạ tôi hay trùm chăn đọc trong chủng viện.

Tôi, một chú chủng sinh lớp mười hai, tập thương Chúa và thương Ðức Mẹ hơn mọi giống đàn bà khác gần cả chục năm trong một môi trường chính quy như chủng viện Phụng Sự này, nhưng tôi vẫn chưa cảm thấy thương hai vị ấy được. Nói phải tội, cũng đã có thương Ðức Mẹ chút đỉnh nhờ những bức tượng mỹ miều khắp nơi trong chủng viện: trong nhà nguyện, ngoài khuôn viên, và nhờ những mẩu tượng lớn nhỏ, nhất là những bức tranh Ðức Mẹ trong các cuốn từ điển bách khoa Larousse. Thương thì phải rung cảm chứ, thế mà tôi chẳng cảm thấy khoái chút nào những lúc tham dự thánh lễ, là những lúc Kết hợp – Communion với Chúa. Cái từ ngữ viết hoa thiêng liêng này có thằng bạn dân Phú Cam cả gan đề nghị thầy dạy Pháp văn nên dịch là giao hợp  mới đúng ngữ căn. Tính tôi cũng thích phân tích này nọ, mà cũng phải chửi đổng khi nghe hắn lộng dịch như thế. Tuy nhiên, nó cũng có lý của nó. Cái trò bóp méo vê tròn chữ nghĩa là nghề của các thần học gia chính thống Công giáo. Họ không biết rằng khi họ cố chỉ cho người ta con đường tìm Chúa bằng những lý luận của họ, thì chính họ đang làm công việc dẫn con người vào bóng tối, và chính bản thân họ cũng lao luôn vào vực thẳm. Những giá trị đạo đức, những chuẩn mực trong Kinh Thánh mà họ trưng ra, chẳng phải là độc quyền của Kitô giáo như họ tưởng. Nếu chịu khó làm một bảng đối chiếu người ta có thể kiếm thấy các tư tưởng ấy trong các Kinh, Thư khác. Và xem ra, nhìn chung, tư tưởng trong Kinh Thánh còn là sà lắm, so với cái uyên áo trong những kinh thiêng của các tôn giáo khác, ví dụ, của Ấn độ giáo, Phật giáo, và ngay trong một số pho kinh điển Trung Hoa. Ngoài ra, tôi còn cảm thấy có một cái gì đó có vẻ biển lận, hồ đồ trong lề lối suy tư, phải nói suy diễn thì đúng hơn, trong những bài giáo lý Công giáo tôi đã học qua. Chính Giáo hội đã tạo ra không biết bao nhiêu những khung cửa hẹp dẫn vào mê lộ. Mấy ai ra khỏi được mê lộ chử nghĩa. Khổ thay cho ai bị lạc đường, vì họ là con Ngụy-Ngôn, Anti-Logos!

Tôi học tiếng Bana nhanh không ngờ, nhanh hơn hồi học Pháp văn và La tinh với mấy cha tây, có lẽ nhờ vừa nhìn vú gái Thượng vừa học. Biết đâu Y Ban lại thông thạo được ba thứ tiếng Thượng cũng nhờ nhìn vú. Vú vê quyết định tri thức con người. Tôi thiệt phục cha Giovanni; cha đã ở đây gần cả chục năm mà chẳng hề hấn gì. Vì “Chúa là khiên thuẩn che chở đời con…” . Mà che chở cái gì ở đời?  Ôi, tự nhiên quả là làm phiền siêu nhiên lắm lắm!

Thỉnh thoảng tôi vẫn hay vào nhà xứ: Khi thì mượn báo, khi thì lấy thức ăn. Tôi để ý thấy cha hay ngồi nơi bàn viết nhìn đăm đăm ra phía ngoài cửa sổ, trang nghiêm, mê đắm. Tôi cứ nghĩ cha đang ngồi nguyện gẫm, kiểu của cha, và đang ở trong trạng thái xuất thần như một số vị thánh ngất ngây trong hoan lạc khi được chiêm ngưỡng Chúa qua thị kiến, mà tôi đọc được trong Hạnh Các Thánh; hơi thở cha rền như ống bể lò than. Thỉnh thoảng những lúc như thế, cha lại với tay uống ly nước, có lẽ là nước suối mà có đêm trăng nọ tôi thấy cha từ rừng cõng về. Cha nuốt ừng ực như những tay bợm rượu cuống quýt tợp rượu.Vì có những lúc cất tiếng chào cha, tôi thấy cha giật mình, nên những lần sau thấy cha ngồi như thế, tôi biết ý không chào hỏi gì, cứ tự tiện lấy các thứ cần dùng rồi im ỉm đi ra.

Có hôm cha đi vắng; cửa khép hờ. Tôi mở cửa vào phòng mượn mấy tờ Mission Chrétienne7 cha để thành chồng trong góc phòng về đọc đỡ. Trong phòng chẳng thấy có gì đáng giá, ngoại trừ tượng Ðức Mẹ Xót Thương Pietà6 bằng cẩm thạch trắng đã lên nước láng bóng cha dùng để đè mấy tờ tạp chí xếp thành chồng dưới đất trong góc sau lưng cha. Bức tượng tuy chỉ đúc nhại nhưng vẫn có được vẻ mỹ thuật và thần thái như tượng gốc hiện trưng bày trang trọng trong đại giáo đường thánh Phêrô ở Rôma mà tôi đã ngắm không biết bao nhiêu lần qua bức ảnh do nhiếp ảnh gia Giraudon chụp in lại trong đại từ điển Larousse, thế mà không biết tại sao cha lại bỏ nó bên cạnh mấy con dao lam rỉ sét, mấy cục xà bông thơm Cholon dùng lở dở, mấy cái tăm xỉa răng bằng nhựa đã dùng, toàn những thứ bỏ thì thương mà sương thì nặng, hay dùng chữ của tiên tri Isaia, là đồ phế thải của loài người. Chiếc bàn viết chỉ là một cái bàn gỗ thô, chân bàn có những đường dao khắc thô sơ các khuôn mặt lơ ngơ của tổ tiên dân Thượng thì phải. Tôi thấy trên bàn có cuốn Nhật tụng Linh mục. “Chúa là khiên thuẩn của đời con…” Thánh vịnh này và hàng trăm thánh vịnh khác, tác giả là vua Ðavít, một thợ thơ nghiệp dư, làm để nịnh nọt với Ðức Chúa Trời, sau khi ông bị Chúa quở trách, vì vào một buổi trưa hè, từ trên sân thượng cung điện nhìn xuống thấy vợ của tướng Uria đang tắm để lộ cả cái khuôn vàng, nên đã tằng tịu với nàng, trong lúc ông tướng đang xông pha trận mạc để bảo vệ cho chính ngai vàng của mình, đã thế lại còn chơi trò đểu giả đẩy ông tướng bị cắm sừng đó vào mặt trận hiểm nghèo khiến ông phải chết thảm hầu bợ cô vợ mỹ miều của ông tướng về ở chung cho tiện. Và cũng có thể những bài là thơ ấy do bà vợ ông tướng Uria ấy mớm cho, vì thơ thẩn gì đã dở mà lại sướt mướt như liền bà con gái, không được cái nét tài hoa, hào sảng của tiên tri Isaia, hay cái u uẩn khôn nguôi trong sách tiên tri Giêrêmia.Vậy mà các linh mục phải đọc những bài thánh vịnh đó mỗi ngày. Chán là cái chắc. Chán chường là mẹ đẻ của tội lỗi. Ngoài ra trong phòng còn có một chiếc ghế cổ, bọc nhung xanh trang nhã, hoa văn uốn lượn quý phái, một loại ghế nổi tiếng  mỹ thuật của Ý Ðại Lợi có từ thời Phục Hưng, chắc là vật gia bảo của cha đưa từ Ý sang. Tôi ngồi thử xuống chiếc ghế, êm thiệt là êm, và nhìn mông lung qua khung cửa sổ: Trời đất ơi, bóng núi phía trước dần dần hiện lên nguyên hình một người đàn bà đá, nhũ hoa lồ lộ, nắng quái chiều hôm đang chiếu vào rạng rỡ như những nguồn mật ngọt lai láng lộc trời; và phía dưới chân núi là một cửa động âm u huyền hoặc! Hình tượng to lớn và gợi dục còn hơn hình tượng hành dâm trong những mảng phù điêu, những bức hoành tráng trong các đền đài Ấn Ðộ; nó bao trùm lên núi rừng, đè lên bản làng, tuởng khơi khơi chiếc bóng, mà nặng tựa Thái Sơn. Tôi toát mồ hôi lạnh. Có phải cha bị bóng núi đàn bà mê hoặc; và cha ở đây cả chục năm cũng chỉ vì quyến luyến bóng núi ấy; rồi, những đêm trăng, lại hăm hở đi uống nước nguồn rịn từ cái hang thăm thẳm đó, chưa nư, còn gùi về nhà? Có phải là như thế, hay tôi đầu óc tôi đã bị long ốc, đã vướng phải ngãi, hoặc giả bị vong cái anh lính Thượng quấy quá, vì đã ăn ở vô ý vô tứ trong cái nhà sàn đã chứng kiến không biết bao nhiêu điều kỳ lạ giữa anh và cô vợ, nên mới nhìn gà hoá cuốc như vậy? Khi bắt đầu ngồi vào bàn viết của cha, tôi không cảm thấy cần phải dè giữ gì cả, vì có bữa cha đã nói với tôi là thỉnh thoảng cha đi vắng tôi có thể sử dụng phòng cha, nhưng khi khám phá cái mà tôi nghĩ là cha đã chiêm ngắm trong những tháng ngày rừng xanh núi thẳm lẻ loi, tôi cảm thấy như tôi đã xâm phạm vào cõi riêng tư linh thiêng của cha, tựa như một tên ba trợn đã lén nhìn vợ của một người rất đáng trọng đáng kính đang khoả thân vậy. Tôi không muốn dây dưa với người đàn bà của người tôi thân quen, dù là đàn bà đá. Tôi đi ngay ra sau vườn, đi vơ vẩn cho đỡ nghẹn; mắt dõi theo những bóng chim đêm bắt đầu hoan hỉ ra khỏi tổ ngày. Ánh sáng sắp nhường chổ cho bóng đêm. Tôi thấy cha lầm lủi đạp xe về. Chiếc xe đạp oằn cong như thể cha đang thồ cả tấn; và cha vội vã ngồi ngay vào bàn tiệc rừng rú mà cha cứ tưởng là của riêng cha.

Sáng hôm sau, tôi nhắm hướng núi, lần theo con đường mòn đi xem hang động người đàn bà đá. Con đường dẫn tới một cửa động vòm cung giáo đường, ngàn ngàn tầng kim nhũ treo ngược như trong một cửa hàng chuyên bán vú vê sang trọng mà sau này tôi có dịp thấy trong những hội chợ tình dục Copenhagen. Nước từ nhừng cặp vú kim nhũ cháy ri rỉ xuống một cái hồ nhỏ như một mảnh linh hồn nhỏ nhắn trong suốt. Tôi thấy quanh hồ lăm nhăm vệt giày chắc là của cha Giovanni. (Ở đây dân Thượng dép còn không đeo nói chi giày với ủng; còn mấy anh Cộng sản làm chi có giày.) Có một hấp lực nào đó đè tôi nằm xuống, cái hấp lực của những thảm cỏ non, hay của những bàn tiệc trần gian ngon ngọt, ngon ngọt đến nổi người ta phải nằm sấp, vục mặt vào mới thoả; và tôi tự nhiên nằm ẹp xuống liếm liếm nước vú đá như chó giái giữa trưa hè chạy rông khát nước. Uống xong, tôi không muốn đứng dậy nữa, tôi nằm vật xuống giữa nền đất mát mẻ dịu dàng, liu riu nhìn muôn ngàn cặp vú trời cho đang treo rực rỡ nhiệm mầu trên vòm động.

Tôi váng vất trở về như vừa mới trầm mình trong suối rượu, rồi nằm xoài trên sàn nhà, chấp chới giữa tiếng súng nổ rền quanh bản, và tôi chìm vào giấc ngủ. Tôi chập chờn thấy anh lính Thượng kêu la. Lưỡi anh thè dài, bộ phận sinh dục của anh căng cứng dài ngoằng dính với lưỡi đang thè ra đến nổi tôi không còn phân biệt đâu – xin lỗi – là dái và đâu là lưỡi. Rồi vừa tru như chó anh vừa châm lửa đốt luôn nhà sàn của anh; và anh bỗng lôi trong gùi ra một con lươn lớn bóng nhẩy, nhưng mặt lại là mặt đàn bà, ném vào ngôi nhà sàn đang bốc cháy, đồng thời buông những chuỗi cười đểu cáng, và phóng những tia mắt dữ tợn, chỉ có người Kinh mới có.

Tiếng bom đạn lại nổ, gần như sát nhà, làm tôi bật dậy. Tôi lê mình ra trước hiên gục mặt vào lu nước mưa. Nước mưa lạnh và tiếng bom đạn dội trong lu sành làm tôi tỉnh hẳn. Khi ngước mặt lên, tôi thấy ai như cha Giovanni đang chạy như ma đuổi trên con đường dẫn ra động vú đá. Cha vừa chạy vừa nhìn lên trời vừa rống:”Miserere nobis! Miserere nobis! – Xin Chúa thương xót chúng con! Xin Chúa thương xót chúng con! “, tiếng kinh cầu thống thiết của những con người trót mang thân phận loài người, như tôi, như cha Giovanni, những kẻ bị gắn vào đầu cái ý niệm tội nguyên tổ ngay từ ngày lọt lòng mẹ. Thỉnh thoảng cha lại sụm xuống như ngọn núi bị đào hỏng chân. Và tôi nghe tiếng cha khóc. Những lúc như thế, không nên can thiệp; tôi đã học được trong nhà dòng những phép lịch sự đại loại như thế. Tôi băn khoăn, và phải nói hoảng nữa là đằng khác, nhưng tôi nghĩ là có lẽ bom đạn và số phận con chiên cùng bản làng làm cha chịu không thấu nên cha phải kêu van thống thiết Chúa Quan Phòng của cha như thế; và cha cần đi vào tịnh thất  của cha một chốc để lấy lại bình tĩnh hầu còn trở về đưa giáo dân đi chạy giặc, vì mới hôm qua tôi đã nghe cha nói là có lệnh từ trong tiểu khu là cha và giáo dân trong bản phải di tản ngay; giáo xứ và vùng phụ cận trở thành vùng oanh kích tự do bắt đầu từ ngày mốt vì các lực lượng chính quy Bắc Việt đang tập trung quân quanh đó.

Những loạt bom nổ ven rừng. Nổ rồi lại ngưng. Tôi chờ cha trở lại nhưng đã hơn ba tiếng đồng hồ vẫn chưa thấy bóng dáng cha đâu, tôi đâm hoảng chạy nhanh về phía động. Tôi thấy có xác ai đó nằm sấp, cạnh những hố bom tôi không biết là mới hay cũ, ngay trước cửa động. Ðích thị là cha Giovanni vì tôi vẫn nhớ chiếc áo sơ mi trắng và chiếc quần dài kaki của cha. Lại gần tôi mới thấy xác cha một phần bị đất bom vùi và đầu của cha chỉ còn là một mảng óc bầy nhầy. Cha nằm đó sấp mình giang tay hình thánh giá, cử chỉ tượng trưng cho cuộc đời hi sinh đến tận cùng như Thầy chí thánh của mình, mà cha đã từng thực thi trong ngày lễ thụ phong linh mục. Lạ chưa, tôi thấy có vệt khói súng còn nám trên mảng thịt thái dương còn dính lại! Mấy anh Việt Cộng đã hành quyết cha trong vội vã? Lý này không vững, vì cha đã ở với bản gần cả mười năm, nếu chúng nó muốn giết thì đã giết từ lâu, mà sức mấy chúng dám giết. Hay là cha tự sát, xong, bị bom nổ đất vùi, vùi luôn súng đâu đó? (Súng ống ở đây muốn là có ngay, từ khẩu Colt 45 cho tới K54.) Lý này cũng không vững nốt: Cha là linh mục; linh mục Công giáo mà lại đi tự sát là chuyện tôi chưa hề nghe, nhất là trong lúc đó, dù gì đi nữa cha phải biết là cha có trách nhiệm dẫn dắt con chiên ra khỏi vùng lửa đạn. Hay cha đau khổ đến quẩn trí, vì phải chứng kiến những tàn khốc chiến tranh chắc chắn sẽ huỷ diệt bản làng, giết chết con chiên mà cha đã chia sẽ đắng cay trong gần một thập kỷ; liệu Ðức Mẹ Xót Thương Pietà có đau khổ như cha chăng? Hoặc giả vì những tra vấn triết lý về cái vô nghĩa của thân phận con người đã giày vò cha, những câu hỏi mà người Âu châu hiện đại hay vướng phải và rồi bị trói chặt luôn không ra được nữa, vì thật không gì vô nghĩa cho bằng thân phận con người Việt Nam, và nhất là người Thượng, trong cuộc chiến ngu dốt tưởng như trong giả tưởng vừa qua? Tôi chỉ suy nghĩ kịp tới đó; tiếng súng lại nổ rền, tôi vội vã nhặt những miếng thịt óc còn vương vãi chung quanh cha; và tôi chỉ còn kịp đẩy xác cha xuống hố bom đạn gần bên, rồi đưa tay lùa một ít đất xuống gọi là chôn cha. Ôi, Ðức Giêsu ngày xưa còn được các môn đệ hạ xác xuống, thuốc thơm tẩm liệm và được táng trong mộ đá đàng hoàng…! Vội thì vội, tôi vẫn liếc vào cửa động: Trời đất, vú đá rơi rụng tơi bời giữa vũng sình vang váng màu máu, như trong sào huyệt của một tên seriemurder  nào đó khoái giết đàn bà để cắt vú sưu tầm, nhưng bấy giờ lại đang bận bịu truy lùng những cặp vú mới, đành vứt bừa chiến lợi phẩm của mình ra đó!

Tôi chỉ biết chạy ngược lại bản, thúc dân bản mau mau tập trung tại nhà xứ để cùng chạy loạn. Sau đó tôi chạy vào phòng cha Giovanni, chạy vào chỉ để mà chạy, không biết tại sao; và tự nhiên tôi lại nhìn ra khung cửa sổ: Vú của người đàn bà đá đã bị bom đạn phạt ngang tơi tả nham nhở như như ngực của một người đàn bà bị ung thư vú vừa bị một tay thầy thuốc mắc chứng khổ dâm8 dùng dao bếp cùn cắt.

 

Mất liên lạc với anh Y Ban dễ chừng đã hơn hai chục năm; nhưng cuối cùng tôi cũng kiếm ra được địa chỉ và tôi có gởi thư nhờ anh kiếm lại – dù hi vọng rất mong manh – hài cốt cha Giovanni và nhờ anh chôn cất cho đàng hoàng. Tôi có tả lại vị trí nơi cha bị chết: dưới chân người đàn bà vú đá, sát cửa động. Nhưng anh cho biết là anh chỉ thấy núi là núi, nên anh không biết cái động đó nằm ở đâu.

Còn tôi, qua được trời Tây, tôi vẫn tiếp tục đi tu, và sau những năm dài tu tập trầy trụa, tôi cũng liều nhắm mắt đưa chân làm linh mục thừa sai như cha Giovanni. (Với cái từ ngữ như tôi muốn nói là tôi tu cùng một hội dòng với cha chứ tôi làm gì ngon lành như cha ấy được.)  Và hội thừa sai, sai tôi – tôi chọn thì đúng hơn – đến truyền giáo – chưa chắc ai đã truyền giáo cho ai – ở Ethiopia lúc đó cũng đang choảng nhau với dân Eritréa ra trò. Khi đến đó, tôi lại xin cha bề trên tỉnh cho tôi được sống với sắc tộc Oromo, da dẽ cũng ngăm ngăm như người Thượng bên mình. Và, họ, vốn là hậu duệ của nữ hoàng Saba đã từng làm cho vua Salomon trong Kinh Thánh say như say trầm hương xứ bà, nên liền bà con gái vú vê cũng ngon lành lắm, chỉ choàng ởm ờ một lớp vải the phất phơ, mỏng còn hơn vải mousseline. Vậy mà, cảm ơn Chúa, tới nay tôi chưa bị ngã đạn.

Hay là tôi trở thành người Thượng như anh Y Ban mất rồi?

Chuyện tới đây chấm hết kể ra cũng được rồi, nhưng có một chi tiết liên quan đến bức tượng Pietaø mà tôi có đề cập đến lúc nãy, nên tôi nghĩ có kể ra đây chắc bạn đọc cũng không đến nỗi trách cái chuyện cà kê dê ngỗng của tôi:

Số là tôi có đi dự đại lễ phong thánh cho một trăm mười tám vị chân phước tử đạo Việt Nam, là những đấng mà các vị thừa sai như cha Giovanni đã tạo cho cái cơ hội lãnh triều thiên tử đạo, như biết bao vị khác trong lịch sử thấm máu đào của đạo Công giáo, đặc biệt như các vị tử đạo dưới thời các bạo chúa Rôma. Các vị thánh tử đạo này là những kẻ mà một tay ký giả Tây mũi lỏ láo cá, trong bài viết về chuyện Quyết Tử Cho Tổ Quốc Quyết Sinh của phe kháng chiến cực đoan Hamas người Palestine, đã nhận ra những nét tương đồng với những quyết tử quân của vừa kể: Cả hai – quyết tử quân Hamas và những vị tử đạo thời Rôma thửa xưa – là những kẻ mắc bệnh thống dâm9, hoặc là những kẻ làm business đốt giai đoạn. (May hắn không biết, nên không nhắc đến hàng trăm ngàn vị tử đạo trong ba trăm năm truyền giáo ở Việt Nam!) Nhân dịp đó tôi cùng phái đoàn giáo dân NY đi thăm các giáo đường nổi tiếng và các công trình hội hoạ, điêu khắc được trưng bày, thờ kính trong những giáo đường ấy. Hôm kính viếng đền thờ thánh Phêrô, chúng tôi được cha Y,  chánh xứ NY, nhưng cha là thổ địa Rôma vì cha đã từng du học tại Viện thần học thánh giáo hoàng Grêgôriô Cả cả chục năm, hướng dẫn đến xem bức tượng Ðức Mẹ Xót Thương Pietà của điêu khắc gia, kiêm hoạ sĩ, kiêm kiến trúc sư, kiêm thi sĩ  Michelangelo. Ngoài thân thế, và sự nghiệp như kể trên, cha còn thuật lại là trước khi khởi khắc bức Ðức Mẹ Xót Thương Pietà, cụ Michelangelo đã nghiên cứu kỹ cơ thể học, nhờ thế vẻ xót thương của Ðức Mẹ xót thương nhìn xuống con mình biểu hiện chính xác trên từng đường gân thớ thịt của Ðức Mẹ. Bỗng thằng cháu tôi, bác sĩ giải phẩu thứ thiệt đã từng tốt nghiệp khoa giải phẩu thẩm mỹ, đại học đường y khoa quốc gia Ðông Kinh, thì thào vào tai tôi, đã thế hắn còn cẩn thận dùng tiếng Nhật: “Bác à, cháu thấy Ðức Mẹ buồn bã nhìn xuống đôi vú sắp sửa xẹp lép của mình, chứ có phải nhìn xuống xót thương Chúa Giêsu đâu! Cái lão Maiku10 thiệt là đểu!”

Về khoản cơ thể học tôi bó buộc phải tin thằng cháu trời đánh hơn là tin cha Y. Sorry!

 

Oslo, 8 . 00

 

(1) La pauvreté, c’est riche (tiếng Pháp): Nghèo mà giàu. Ý nói: nghèo giả bộ.

(2) Bene (tiếng Ý): Tốt lắm!

(3) Alter  Christus (tiếng La tinh): Một Giêsu khác: Châm ngôn của các linh mục Công giáo: Lý tưởng của người linh mục là cố gắng trở thành như Ðức Giêsu.

(4) Paradiso (tiếng Ý): Thiên đàng.

(5) Abisso: (tiếng Ý): Vực thẳm.

(6) Pietà (tiếng Ý): compassion, miséricordia: lòng thương xót, lòng lân tuất. Lâu nay người ta hay dịch: tuợng Pietà là tượng Ðức Mẹ sầu bi, e không ổn.

(7) Mission Chrétienne: Sứ vụ Kitô hữu (tên một tờ báo) .

(8) Khổ dâm: Sadisme: Chứng bệnh tâm lý: Cảm thấy khoái lạc khi làm đau đớn người khác.

(9) Thống dâm: Masochisme: Chứng bệnh tâm lý: Cảm thấy khoái lạc khi tự hành xác mình.

(10).Maikự: Người Nhật phiên âm từ danh xưng bỡn, thân mật Mike, gốc từ Michael (tiếng Anh) , Michelo (tiếng Ý).

(…) Ngoài ra vì  đây chỉ là một chuyện ngắn chứ không phải là một bài khảo cứu nên, nên xin miễn cho tôi việc phải ghi xuất xứ một số ý tưởng của các tác giả tên tuổi tôi dùng để tô điểm cho truyện.

 

NTNV 2 – Vào truyện – Oscar Wilde, Võ Phiến

 

Bilderesultat for oscar wilde

Oscar Wilde (1854 – 1900)

Vào Truyện I

Người nghệ sĩ là người sáng tạo ra những cái đẹp.

Ðưa nghệ thuật ra ánh sáng và đồng thời giấu đi chính con người nghệ sĩ là mục đích của nghệ thuật.

Người phê bình là người chuyển lại, dưới một dạng thức khác hoặc dưới một chất liệu mới, cái ấn tượng của hắn về những cái đẹp.

Cái hình thức cao nhất, cũng như thấp nhất, của chuyện phê bình ở chỗ: Ðó là một hình thái của bản thân người phê bình tự nói về con người của hắn.

Những kẻ bươi móc ra những cái ý xấu trong những cái đẹp là những kẻ đồi bại mà chẳng hấp dẫn được ai. Ðây là một thói xấu.

Những kẻ nhìn ra được những ý tốt đẹp trong những cái đẹp, họ là những kẻ có văn hoá. Ðối với những kẻ này, chúng ta còn niềm hi vọng.

Có những người thứ thiệt, đối với họ, những cái đẹp chỉ có nghĩa là Cái Mỹ.

Chẳng làm gì có cái chuyện sách này đạo đức sách kia vô luân. Viết hay hoặc viết dở; tất cả chỉ có thế.

Thế kỷ thứ mười chín không thích trường phái Hiện thực thì cũng giống như Caliban1 giận dữ khi nhìn khuôn mặt của mình trong gương vậy.

Thế kỷ thứ mười chín không ưa trường phái Lãng mạn thì cũng chẳng khác gì chuyện Caliban phẫn nộ không nhìn bản mặt của mình trong kiếng.

Ðời sống luân lý của con người góp phần tạo nên cái chủ thể tính của người nghệ sĩ, nhưng tính luân lý của nghệ thuật nằm ở chỗ, trong nghệ thuật, người nghệ sĩ dùng được một cách toàn hảo cái phương tiện bất toàn. Chẳng có người nghệ sĩ nào lại muốn chứng tỏ điều gì. Ngay cả những điều chân thật cũng có thể phải làm tỏ.

Chẳng có người nghệ sĩ nào lại có những thiện cảm đượm màu đạo đức. Một sự thiện cảm đượm màu đạo đức nơi người nghệ sĩ là một sự đỏm đáng về phong cách; một sự đỏm đáng không thể tha thứ được.

Chẳng có người nghệ sĩ nào mà đã từng bệnh hoạn (như thế). Người nghệ sĩ có thể lột tả  mọi chuyện.

Nơi người nghệ sĩ, tư tưởng và ngôn ngữ là những khí cụ làm nghệ thuật.

Nơi người nghệ sĩ, nết xấu và tính tốt là những chất liệu cho nghệ thuật.

Nhìn từ quan điểm hình thức, điển hình cho mọi nghệ thuật là nghệ thuật của một người nhạc công. Nhìn từ quan điểm cảm tính, cái điêu luyện của người diễn viên chính là khuôn mẫu (cho mọi nghệ thuật).

Mọi nghệ thuật cùng một lúc có mặt nổi và mặt chìm.

Những kẻ liều lĩnh chui xuống dưới mặt nổi, có gì thì rán mà chịu.

Những kẻ đọc dấu hiệu của mặt chìm mà lỡ sứt trán u đầu thì chớ khá than vãn.

Nghệ thuật phản ánh chính cái-người-nhìn-sự-đời, chớ đâu có phản ánh sự đời.

Sự đa dạng của những ý kiến với một tác phẩm nghệ thuật chứng tỏ tác phẩm đó mới, nói lên được nhiều sự, và tràn trề sức sống.

Khi những nhà phê bình bất đồng ý kiến thì người nghệ sĩ lại tâm cảm với chính mình.

Chúng ta có thể tha thứ cho một người, vì hắn đã chế tác ra một sự có ích, bao lâu hắn không đứng đó mà trầm trồ khen ngợi cái sự có ích ấy. Cái lý do duy nhất bào chữa được cho cái chuyện làm ra cái vô ích là ở chỗ người ta có thể trầm trồ khen ngợi mệt nghĩ cái vô ích đó.

Tất cả mọi nghệ thuật thì hoàn toàn vô ích2.

OSCAR WILDE (1854 – 1900), văn hào Anh.

(1) Caliban: nhân vật trong vở kịch Tempest – Bão tố của William Shakepeare. Caliban con của phù thủy, hình dáng không ra vẻ người (subhuman in appearance), một người nô lệ man rợ, dị dạng.

(2) Vào Truyện I, từ tác phẩm The Picture of Dorian Gray – Bức Tranh của Chàng Dorian Gray. Tác phẩm này xuất bản lần đầu tiên năm 1891. Ông viết thêm phần vào truyện này cho những lần xuất bản sau để trả lời cho những lời phản đối chung quanh tác phẩm. Tác phẩm đã gây tai tiếng chết người, và cũng khởi đầu cho những gian nan cùng cực đời ông.

 

Vào Truyện II

Bilderesultat for Võ Phiến

Võ Phiến 1915 – 2015

MINH NGUYỆT: Sống ở nước ngoài đã hai mươi mốt năm, nhìn lại văn học Việt Nam nói chung, không phân biệt xưa và nay, thì bác thấy điều gì nổi bật nhất, là đáng kể nhất?

VÕ PHIẾN: Thưa chị tôi có cảm tưởng là người văn nhân Việt Nam không mấy khi được thanh thản đầu óc. Suốt mấy trăm năm luôn luôn họ bận bịu, là bận bịu về cái chính tà, cái phải cái trái, về phía trung phía nịnh, về cái tốt cái xấu v.v… Nguyễn Du là người hiếm hoi, tuyên bố là viết sách để mua vui, ngoài cụ ra có ai thẳng thắn chịu nói viết sách để mua vui đâu? Xuân Diệu là người hiếm hoi nữa, tự nhận mình là con chim đến từ núi lạ, ngứa cổ hát chơi. Là ổng nói vậy thôi chứ con chim đó hát chơi được mấy tiếng? Phải là con chim đến từ núi lạ kìa, chứ còn chim núi này thì vừa hát thử được mấy tiếng, hát chơi tí xíu đã bị tóm cổ vô ban đồng ca bắt hát thiệt cho tới khản cổ thôi. Còn cụ Nguyễn Du thì cụ cũng nói vậy thôi, chứ còn truyện cụ có gì vui đâu: đầy nhóc những hiếu trung đạo nghĩa, vui sao cho bằng truyện anh Bảo Ngọc, truyện chú Tây Môn Khánh, hả hê suốt một đời giữa đám đàn bà con gái, thơ phú đàn hát, rượu thịt liên miên. Mà những nhân vật đó ở cạnh nước mình thôi, ở bên Tàu, quê hương của Khổng Tử gần đây thôi, chứ có gì xa xôi. Văn nhân của mình thì bận bịu sứ mệnh như vậy đó, mà người đời lúc nào cũng lom lom  theo dõi từng câu từng chữ của họ, để xem tấm lòng người này hướng về đâu, về vua chúa nào, để xem người kia có thiệt sự thuộc về dòng yêu nước hay dòng yêu tì. Ðại khái vậy, cho nên cái văn học ta nó nghiêm chỉnh, văn nhân ở ta ít khi thảnh thơi để trọn tâm trí chăm lo công việc nghệ thuật của mình.1

(1) Trích từ cuộc phỏng vấn của đài phát thanh Australia ở South Melbourne, tiểu bang Victoria, Úc, 1966. Cuộc phỏng phấn do bà Minh Nguyệt thực hiện. Bài này được in lại trong tập Cảm Nhận, Văn Mới xuất bản, 1999.

 

 

Người Thích Nhìn Vú (NTNV) – Bìa trước – Mục lục – Nguyễn Văn Thà

 

Nguoithich

 

 

Bìa Trước

Nguyễn Văn Thà

Người Thích Nhìn Vú

Huy hiệu và tên nhà xuất bản

Trang trong 1

NGƯỜI THÍCH NHÌN VÚ

Tác giả: Nguyễn Văn Thà

Bìa: Nguyễn Thị Hợp

Nhà xuất bản: Giếng

Huy hiệu nxb: Nguyễn Văn Thà

Tháng Giêng, 2003

 

Trang trong 2

Kính dâng bọ mạ tôi, ông Nguyễn Tiệm và bà Nguyễn Thị Hiếu, những người nhà quê nghèo khổ, mù chữ, nhưng những mong cho con mình được chữ nghĩa một bụng.

Trang trong 3

Cảm ơn các bạn đọc xa gần đã góp ý trong tiến trình hoàn thành tác phẩm này. Ðặc biệt cảm ơn nhà văn Thanh Tâm, nhà thơ Nguyễn Văn Cường, anh Bành Công Tín, Minh Thao, Vũ Thị Ngọc Tuyền, và Trần Thị Minh Mẫn đã coi giùm bản thảo,n Cũng cảm ơn con út Nguyễn Hiển Vi, 7 tuổi, cứ hay hỏi thăm về chuyện viết lách của ba.

***

Trong tập truyện này có một số truyện đã được đăng rải rác trên tờ Thế Kỷ 21; tác giả đã sửa chữa lại một đôi chổ khi in sách và khi đăng lên mạng Tiết Trực Tâm Hư. Các truyện này và các truyện khác trong tập là văn bản chính thức.

Nguyễn Văn Thà

 

***

Mục Lục

(Các chữ in đặc biệt là tên từng truyện; các số nằm cạnh dưới là số của trang nơi truyện bắt đầu)

 

Trăm năm trong cõi đời ươn

Người thích nhìn vú1 trong Vườn mai sau

Miếu đền dưa đỏ nhiệm mầu

Tặng vật lan dựng Ải sầu Nam quan

Bu bu woa nghĩa bàng hoàng

Trại tập trung  ấy vô hình không sai

Người thích nghe tiếng chuông ngoài

Hạc vàng & nhà nhỏ chia hai đường trời

It’s not so bad lòng ơi

Mỏng manh Mạng nhện yêu thời cứ yêu

Nhớ nhung hoa tạ màu chiều

Ðàn ông ác độc lắm điều tang thương

Sách đời Ông Tám chữ thương

Lẽ Trời lặng tiếng, nhiễu nhương lẽ người

Bỗng nghe cay mắt bụi đời

 

NGUYỄN VĂN THÀ