Nguyễn Văn Thà
*Amore somnoque gravata
et vestibus versicoloribus:
Trỉu nặng tình ái cùng ngủ nghê,
và áo xống thì đủ màu đủ sắc .
(?)1
** Người nô lệ da vàng ngủ quên
trong căn nhà nhỏ;
đèn thắp thì mờ.
Trịnh Công Sơn
Quê hương ai mà chẳng muốn trở về. Cổ kim thơ bàng bạc những khói sóng mây trắng, những rau dền mắm ruốc. Ôi, những thứ đó, xa rồi mới nhớ! Mà tại sao lại nhớ? Trời Tây nầy cũng mây bạc, khói sầu; và quán kẻ Nam nào chẳng rau mắm đầy dư? Vậy mà lòng vẫn cứ nhớ. Ấy là nói cái lòng nhớ quê hương yên ả bình thường, nhưng một khi mảnh cố thổ ấy xác xơ, tàn lụi, cái lòng nhớ ấy lại pha thêm nỗi ngậm ngùi. Càng xác xơ lại càng ngậm ngùi. Có kẻ đâm ra giận phường bạc ác, hăm he xé xác; có kẻ chạy quanh kiếm tiền để về; nhưng cũng có kẻ chỉ biết chảy nước mắt, xót ruột.
Và giống như tình yêu đôi lứa, tình đất nước làm cho khách đa tình sầu vô kể. Khốn cho ai ôm một lượt hai thứ ấy vào lòng. Cái anh chàng Trực phải sầu ngất ngư, vì cả hai thứ ấy có lúc đã hè nhau đổ vào hồn mỏng chàng muôn vàn đấu hào quang. Hai mươi năm rồi mà vẫn chưa tha. Ða tình đa lụy. Cho nên mới “Nhị thập niên xa mã, Hạc hoàng nguyệt khổ căn: Hai mươi năm xe ngựa, Trăng vàng hạc còn đau.”
Chùa Lá Dừa nằm trên một ngọn núi cao khoảng ngàn mét trông ra biển lớn. Thực ra chùa tên Lá Dừa nhưng chùa xây bằng gạch; có cả chùa trên lẫn chùa dưới. Chùa có cái nét kiến trúc đơn sơ, màu chìm, vốn là nét đặc trưng của nền kiến trúc Việt Nam. Chùa không làm cho khách vản cảnh phải mệt mắt, chẳng phồn tạp sắc màu làm ta phải phân tâm chia trí, tâm viên ý mã loanh quanh. Ở đấy đã nằm sẵn Con Người. Ở đấy đã bàng bạc Chân Như. Người vào đấy mà tắm gội nguồn sinh. Ta chỉ vào đấy để bắt lại sự sống. Chùa đã có những vị cao tăng trụ trì, mải tới giờ phương danh còn đọng lại. Ðặc biệt vị sáng lập chùa có vẻ lập dị, vì nhìn bức vẽ truyền thần của ngài, thấy ngài không khoác tăng y mà lại mặc áo dài Việt Nam, cài tả nhậm và bới tóc củ tó; sắc mặt diễu diễu và cả những nếp nhăn cũng mềm mại, chứ không quả đoán, nghiêm nghị, rối rắm gãy nếp như những vị kế nhiệm; nhất là những vị đời nay. Chùa là một thắng cảnh nức tiếng gần xa, nhất là từ khi chùa có được một tượng Phật nằm dài hơn ba chục mét. Ngoài ra ở đấy còn có văn bia cổ, và rất nhiều hoành phi, câu đối. Thứ thì khắc vào cột chùa gỗ lim, thứ thì ẩn hiện trong những bức hoành tráng sơn son, thếp vàng, hoặc do những mảnh đồ gốm bể ghép lại.
Kỳ ấy vào tháng Ba, tháng Tư, miền Nam nước Việt trời chuẩn bị vào mùa mưa, nên trời khô và bầu trời xanh vô chừng. Trung đội biệt kích của Trực, sau mấy tháng vất vả rừng sâu cao nguyên lại được về tiểu khu Bàu Tó nghỉ quân, và được điều lên đóng cạnh chùa. Không hẳn là nghỉ quân, vì trung đội còn phải trấn thủ vòng ngoài cho một đài ra đa đóng phía trên chùa. “Tôi được bên hải quân thông báo cho biết là các anh sẽ về nghỉ quân và nhờ các anh coi chừng vòng ngoài dàn ra đa. Tiện đây ban chúng tôi cũng nhờ các bạn theo dõi xem nhà chùa có kiếm cách tiếp tế cho tụi nó không. Tôi đã nắm được một số nguồn tin là cứ hằng tháng nhà chùa cấp cho tụi nó ba tạ gạo. Phải tìm cách triệt, dù đó là tự nguyện hay bị bắt buộc nộp để sống còn. Tôi cũng biết là đại tá tỉnh trưởng phải làm ngơ cho mấy thầy. Vì sợ mấy thầy. Ðánh đấm dấm dớ như vậy đó, thiệt nản hết sức! Chẳng có gì đáng ngại đâu, trung úy! Chỉ có mấy thằng du kích lèn quèn, nên các bạn vẫn có thể xả hơi được… ” – Ðại úy Trung, bạn Trực, trưởng ban Hai tiểu khu, cựu hiệu trưởng một trường trung học Bồ Ðề, cho biết như thế.
Trực khi không triết lý lan man:
– Thì cũng tại cái óc dân mình nô lệ đã quen nên mới có cơ sự như thế! Thói kính trọng quá đáng các vị tu hành làm tê liệt đi cái lý trí độc lập vốn dĩ là dụng cụ số một để xây đắp một nền văn minh đúng nghĩa… Ở Việt Nam chưa ai dám nói: Chúa đã chết, Phật đã đổ. Thoạt đầu, và ngày nay còn một số người ở trời Tây vẫn còn dè bĩu câu nói sấm sét kiểu đó của Friedrich Nietzche, nhưng đa số cũng dần dần hiểu đó chẳng qua là một câu nói nhằm thức tỉnh lý trí con người ra khỏi cơn mê muội mà đủ loại thẩm quyền phủ trùm lên bao thế hệ. Người dân mình còn bị những thứ uy quyền đó đè nặng, mà không hay, có khi còn tán trợ nữa là đằng khác.
Trung nhập giòng một cách tự nhiên:
– Trái lại tôi thấy người Tây phương họ đã thức tỉnh, đã nhận ra được vị trí của họ trong xã hội, tuy rằng đôi trường hợp dẫn đến quá khích. Ðiều quan trọng là bắt đầu lấy lại cái tự do căn bản ấy, đó là sự suy nghĩ độc lập, cái đã. Rồi từ từ các luồng suy nghĩ khác nhau sinh ra bởi lối suy nghĩ độc lập sẽ điều chỉnh lấy nhau… Những điều chỉnh ấy diễn ra trong một thời gian cụ thể, trong những môi trường cụ thể, bởi những con người cụ thể… Nếu có cái nhìn rộng lớn, cuộc chiến hiện tại là hậu quả của việc người Tây phương đã xử dụng vụng về cái lý trí độc lập ấy… cho nên họ lại rơi vào một thế lực khống chế khác, có khi còn tàn bạo hơn những thế lực hiện diện trước, trong thời của Nietzche. Và những người lãnh đạo đầu óc nô lệ của nước mình cứ tối mặt đâm đầu vào bất kể.
Sai lầm mới là người. Phải đau đớn thôi! Có người gọi đó là cái bi tráng của kiếp người, có người gọi đó là vô duyên cắc cớ. Nhưng tựu trung có lẽ món quà tặng tuyệt vời con người có được chính là cái khả năng suy nghĩ độc lập ấy.
– Tôi thấy hình như anh muốn nói đến biện chứng pháp, mà lại có pha chút vị Thiền, ít nhất là loại Thiền nhập môn mà tôi đọc trong cuốn Vào Thiền của Thích Ðại Chiếu!
– Cuốn đó (và các cuốn sách sau này) của ông là một loại “sách gia dụng” kiểu Sách Dạy Nấu Chay của bà Triệu Thị Chơi vậy thôi! Thôi cũng được đi, ít nhất ở phần đầu với cái phần thiền trong mỗi giây phút! Nhưng khi bắt đầu bàn tới những địa hạt tương đối thâm sâu, thì tác giả lại bắt đầu dùng một lô từ ngữ Phật học chữ Hán khó hiểu, rồi trộn thêm một mớ Pali, Sankrit phiên âm ngang dọc. Tư tưởng thì rối rắm, lối viết của những người chắp vá những mảng văn mượn của tác giả nước ngoài, mà lại dịch không trơn tru, vì tác giả không nắm được ngôn ngữ của văn bản, và cũng không nắm vững kiến thức về vấn đề mình đang khai thác… Dân quê mùa nghèo khổ chẳng ai quan tâm loại tư tưởng kiểu đó, nhưng cái lớp làng nhàng chữ nghĩa trung lưu lại hay thích, thích rồi mê loạn. Cái lớp này mới là đáng sợ. Bởi họ cũng lại là giai cấp “thầy”, mà lớp quần chúng dốt nát lại hay khúm núm, nể trọng họ; đại họa một phần từ đó mà ra…
Ấy là chưa kể các bản dịch kinh Phật dịch rất tồi, lại đầy dẫy chữ Hán, rất nhiều trường hợp không cần thiết; chính tôi đây mỗi khi đọc kinh Phật lại phải ôm từ điển mà tra, phải phân câu lại mà đọc. Huống gì dân không đi học; họ cứ thế mà tụng; tụng mà chẳng hiểu gì, hoặc hiểu lộn xộn. Cứ tụng riết loại kinh bản như thế, trí óc họ dần dần mê muội tê liệt, thành một loại âm binh cho các tay giảo hoạt như Thích Ðại Chiếu, hoặc bọn trí thức rỡm điều khiển.
Và, ở Ta cũng như ở Tây, bọn trí thức nửa mùa đó học Thiền có khi như theo một cái mốt thời thượng, và cũng có khi vì cần để lấp đầy một khoảng trống họ thiếu, họ cần. Ðã thế Thích Ðại Chiếu, khi bí, xoay xở tạo ra một lối trình bày tư tưởng u u minh minh về những lý thuyết của các đấng u u minh minh. Vì u hiển, kinh hãi vốn là nguồn mạch của sùng kính, nên không lạ gì nhiều kẻ theo ông ta. Nhưng cái điều tai hại cho dân tộc mình là khi ông mang cái kiến thức dở sống dở chín ra mà làm chuyện quốc gia đại sự… và biết đâu sau này lại chẳng le te dạy khôn thế giới với mớ kiến thức bát nháo đó.
Trực cười nụ:
– Ngoài kiến thức bát nháo như anh nói, tôi còn nghe nói Thích Ðại Chiếu đã phá cái xuất thế tục chi giới , một giới quan trọng làm nên tăng sĩ; nó làm cho bá tánh kính trọng các thầy, nhờ đó các thầy có một vị thế mà dạy dỗ, hô hào. Nếu phá giới thì thầy cháy, thầy như con số không, thế mà thầy Ðại Chiếu vẫn cứ phây phây là vì sao?
– Tình báo họ nắm được tin tức cụ thể, cả tên tuổi của người tình của thầy Ðại Chiếu, những chuyến đi đêm của thầy, nhưng chính phủ cũng chẳng làm được gì, vì ông ta là một tay giảo hoạt, mồm mép, và vì thiện nam tín nữ đã quá mê muội rồi! Chính phủ khó xử, phải e dè, kẻo lại bị mang tiếng là bôi nhọ, đàn áp Phật giáo như những lần trước…
Trực thở dài:
– Thế mà trong nước ông ta vẫn được các Phật tử, và đặc biệt được sinh viên học sinh kính trọng như anh nói thì đã đành, ngoài nước người ta còn tôn xưng Thích Ðại Chiếu là chiến sĩ đấu tranh cho hoà bình.
– Trực biết đấy: Thì cũng vì ở Tây Phương cái lớp trí thức làng nhàng kể trên có nhiều. Cứ xem cái chuyện ông ta cứ đòi hoà bình, cứ đòi hoà hợp hoà giải dân tộc với cái Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, và người Tây đang hùa theo cũng đủ biết. Cái tổ chức này, như có ông nhà báo đã phân tích: “Ngay một người với kiến thức bình thường cũng biết là từ nhân sự, phương tiện, và tổ chức nhất nhất đều do Cộng sản Hà Nội sắp đặt. Và hàng ngày ai cũng thấy rõ mỗi ngày hàng ngàn tấn khí giới cùng với hàng ngàn lính Bắc Việt theo đường mòn HCM xuôi Nam không phải để đi chơi.”
Rồi nữa: Ông ta gắn cho Cộng sản cái những tính chất như hoà hợp, hoà giải, là những tính chất Cộng sản không thể có. Làm như thế chẳng khác gì ta cho “Trí nhớ thì màu xanh3” hay “Vua César là một số nguyên tố” vậy. Cho nên ông kêu gọi hoà hợp hoà giải có nghĩa là chỉ có miền Nam hoà hợp hoà giải một mình, là ngưng chống lại Cộng sản, để cho Cộng sản làm gì thì làm. Mà Cộng sản là ai, là như thế nào, chẳng lẽ ông ta lại không biết? Hay ông ta lại là người không tưởng? Tìm kiếm một Niết bàn cho dân tộc bằng đường lối Cộng sản, và không muốn cho người miền Nam nắm bắt lấy cuộc đời mình từng giây từng phút như ông kêu mời? Một vua Trần Nhân Tôn, thiền sư thứ thiệt, định hàng quân Nguyên cho dân khỏi khổ, thì một Trần Hưng Ðạo rất tỉnh thức, đã đạt- đạo Ðời: “Bệ hạ nói câu ấy thì thật là nhân đức, nhưng mà Tông Miếu, Xã Tắc16 thì sao?” Nếu không thì nước mình đã trở thành như nước Tây Tạng từ khuya rồi!
Rồi để cho cái màn phản chiến phản quốc của mình có trọng lượng, ông lại đem ra cái thuyết vô nhị mang tính siêu hình, hình nhi thượng, để cổ võ chuyện đạo đức hình nhi hạ như tha thứ, hoà hợp, chín bỏ làm mười, kiểu I can not take sides chống lại tên hiếp dâm, cũng không ủng hộ bé gái 12 tuổi bị hiếp và sau đó bị giết chết, như trong bài thơ My True Self của Thích Nhất Lang4.
Cái thuyết vô nhị ởm ờ, với cái lối minh hoạ phi luân, amoral, theo kiểu đó của ông ta, nếu có đúng tuyệt đối đi nữa, thuyết đó sẽ mang tính phổ quát, và nó chỉ có trong thế giới Lý Tưởng; còn Con Người nó còn bận rộn, nó còn phải vật lộn với cái hiện sinh cụ thể của nó tại thế này, nó đang “thiền”, nó đang xoay xở điều chỉnh, và nó phải hành động, và hành động như thế nào là tùy nó ý thức cuộc đời cụ thể ra sao. Nó có cái nhìn về cuộc đời như chính Thiền Lão thiền sư : “Ðản tri kim nhật nguyệt. Thùy thức cựu Xuân Thu? – Sống ngày này biết ngày này. Còn Xuân Thu trước ai hay làm gì ? “ Không nên đưa cái tri thức cuộc đời xưa cũ để giải quyết những vấn đề hôm nay, trong giây phút hiện tồn. Cái ý đó mà Thiền Lão đã thưa với vua Lý Nhân Tông, cả ngàn năm sau, Krishnamurti (mà nhóm trí thức Phật giáo thân Thích Ðại Chiếu rất ưa chuộng) , nói đi nói lại trong mấy chục cuốn sách của ông.
Tôi biết chắc là con người hành thiền thứ thiệt đó của miền Nam phải take sides, họ phải chém, phải bắn lại kẻ sát nhân, trước khi có một nơi an toàn để mà nghe chuyện Thiền, để mà hành thiền. Ðể cho nhân loại có giờ mà góp nhặt cát đá .
– Rồi thầy Ðại Chiếu cũng bàn đến chuyện bất bạo động nữa đó anh Trung!
– Cái bất bạo động của Thích Ðại Chiếu cũng là một hình thức bạo động. Tôi còn nhớ cũng chính Krishnamurti trong một cuộc hội thoại về bạo động ở San Diego College; sau khi đề cập về bạo-động-dễ-thấy, ông đã nói về một loại bạo động khác: “Nhưng làm sao giải thoát khỏi loại bạo động ở chổ cố gắng để trở nên một vai vế nào đó; loại bạo động tu tập kỹ luật theo một mẫu mực; cố gắng trở thành một kẻ nào đó; chịu nhẫn nhục, hay hành hạ chính mình, tàn nhẫn với chính mình, để trở thành người bất bạo động. Làm thế nào để cho tâm trí được giải phóng khỏi những dạng bạo động như thế? 2”
– Thiệt lạ, miền Nam có nhiều vị bằng này bằng nọ, nhất là mấy vị tu sĩ Phật giáo, cũng như Công giáo, mà chẳng thấy ai phân tích, tranh luận những chuyện sinh tử như vậy…
Trung bĩu môi:
– Biết đâu, mấy bố hoặc lười chảy thây, hoặc tuy có bằng cấp, nhưng cũng chỉ làng nhàng thôi, nên cứ để cho mấy ngọn bút giảo hoạt cứ đàng hoàng dọn cho dân mình những món ăn tinh thần hổ lốn. Bao lâu dân tộc mình chưa có một tầng lớp trí thức nhân văn chính quy, siêng sắn, có đầu óc phân tích, sẵn sàng đối diện với nguỵ trá, thì dân tộc mình khó mà ngóc đầu lên được. Cứ như tình trạng trí thức văn hoá ngày hôm nay, thì dân tộc mình cũng chỉ sẽ làm nô lệ thôi, dù dưới hình thức khác. Cái anh Trịnh Công Sơn nói thế mà linh: Người nô lệ da vàng Ngủ quên trong căn nhà nhỏ. Căn nhà nhỏ của trí tuệ…
– Anh nói, buồn quá!
– Với cái nền văn hoá như thế, chắc chắn đất nước mình sẽ phải chịu nhiều cơn dông bão khốn nạn!
Trực vung tay:
– Cái văn hoá của người Phật tử mình, ngoài chuyện như anh phân tích, nó còn có mang tính chất bắt chước mù quáng. Một loại văn hoá nô lệ. Ví dụ chuyện treo cờ Phật giáo. Cờ quạt là chuyện rập khuôn Tây Phương: Người Tây họ gán cho lá cờ một bản thể thiêng liêng, cho nên mới có chuyện họ chào cờ, hôn cờ, đốt cờ… ; là một chuyện tới nay các hiền giả Tây phương họ cho là chuyện vớ vẩn, absurde. Từ trước Phật giáo nào có cờ! Mãi tới đại hội Phật giáo thế giới năm 1950 ở Columbo, Tích Lan, các vị đại biểu Phật giáo cố kiếm cho các giáo hội Phật giáo trên thế giới một lá cờ chung, như một trong ba sự kiện quan trọng mà đại hội đã quyết định, nhằm tạo ra một sự thống nhất cho các môn phái Phật giáo trên thế giới, (dù rằng thống nhất có nghĩa là cơ cấu; giáo hội mang tính cơ cấu cũng là một sản phẩm Tây phương; và cơ cấu là bước đầu xuống dốc cho bất cứ nguồn mạch tâm linh sâu thẳm nào.) Nhưng dẫu sao đi nữa các vị đại biểu còn biết dùng lá cờ Phật giáo như một dấu chỉ thống nhất, và cũng là một hình thức trình bày một số điểm trong giáo lý nhà Phật5. Bản thể và biểu ý là hai chuyện hoàn toàn khác nhau. Chính vì gán cho lá cờ một bản thể theo quan niệm tào lao của Tây phương, nên mới sinh ra chuyện bất bình, đấu tranh, hại dân hại nước. Phật giáo là một đạo phá chấp, tại sao họ lại tự mâu thuẫn, mà chấp đến như thế? Mà chấp vào một vấn đề phi Phật giáo! Văn hoá nô lệ là chỗ đó. Nô lệ lề thói suy nghĩ Tây Phương. Tôi nghĩ một ngôi chùa uy nghi là chùa không cờ quạt gì cả. Như ngôi chùa mà thửa còn bé mẹ hay đưa tôi đi lễ Phật.
– Nghe anh Trực nói làm tôi nhớ chuyện cụ Phan Thanh Giản: Lúc tàu chở phái đoàn của cụ ghé vào một hải cảng trên đuờng về nước, theo yêu cầu mấy ông Tây trắng Tây đen, cụ đã đưa chiếc khăn gói trầu ra làm quốc kỳ, và cho họ chào mệt nghỉ, và cụ cười ha hả.
Trực vẫn say sưa:
– Ngay cả chuyện tự thiêu vì đạo pháp, hay tệ hơn nữa mượn cớ đạo pháp để giải quyết những vấn đề cá nhân dung tục, cũng là một biểu chứng của thói nô lệ văn hoá, cóp nhặt từ Tàu, hay nói đúng ra từ Phật giáo Tàu. (Chẳng khác gì Hồ Chí Minh bợ nguyên con chính sách đấu tố của Trung Cộng.) Vì có bằng cớ cho ta biết là Ðức Phật ngài cấm chuyện tự thiêu như trong kinh Na-tiên-tỳ-keo kinh do bồ tát Long Thọ, tổ sư truyền chánh pháp của Phật tổ, soạn, mà tôi có đọc, qua bản dịch của Warren9.
– Chà chuyện gay cấn chớ chẳng chơi! Phật nói gì trong kinh ấy, anh Trực?
– Vì đây là chuyện nhức nhối, nên tôi nhớ nguyên văn là: “Hỡi các tì keo, chớ có để ai tự hủy mình, và bất cứ ai tự hủy mình, hãy xử kẻ đó theo luật định.”
– Còn Phật giáo Tàu đó chủ trương ra sao chuyện tự sát, tự thiêu?
– Trong kinh Diệu Pháp Liên Hoa Kinh12, dĩ nhiên là một kinh riêng của Phật giáo Bắc tông Tàu, có kể đến bồ tát Dược Vương nguyện xả thân để chữa bệnh cho bá tánh, và: “Ngài khoác áo có đính châu báu, tẩm dầu có hương thơm, và một khi đã nhiếp tâm đến mức đại định, ngài đốt thân xác mình. Ðám sáng chiếu rọi đến các thế giới vốn nhiều như cát sông Hằng. Và các vị Phật trong các thế giới đó, ngay lập tức, ca ngợi ngài Dược Vương.” Theo giòng lịch sử, cũng đã có một số trường hợp các thầy tăng Tàu hy sinh thân xác mình như một biểu lộ của lòng sùng mộ đối với Ðức Phật hay chư tổ, hoặc để phản kháng sự đàn áp Phật giáo. Thỉnh thoảng cũng có những trường hợp các thầy chỉ cắt cánh tay, hoặc cắt ngón tay, ví dụ, trường hợp nhị tổ Thiền tông Huệ Khả đã cắt cánh tay để biểu lộ tấm lòng tha thiết cầu đạo với sơ tổ Bồ đề Ðạt ma. Những hành động như thế, cộng với việc vua Ðường Hiến Tông cho rước cốt Phật về đặt trong bảo tháp trong hoàng cung để thờ, và một số lạm dụng khác của nhà chùa, đã khiến Hàn Dũ10, nhà Nho, nhà luận chiến số một của Trung Hoa thời đó, đã dâng biểu can gián vua và bài xích Phật giáo…
Trung tiếp lời:
– Ngoài ra, anh Trực ạ, tôi nghĩ văn của Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, như các Kinh Thư cổ khác của các tôn giáo khác trên thế giới, là một loại văn đầy huyễn thoại apocalyptique, mang ý nghĩa tượng trưng rất cao; nó mở ra nhiều kiểu giải thích khác nhau, nhiều khi mâu thuẫn nhau, tuỳ kiến thức, tính khí cụ thể của người chú giải, và sẽ dẫn đến những áp dụng tương ứng. Phật giáo của mình lại sao y chánh bản lối giải thích huyễn tượng, và ứng dụng lới giải thích đó của Tàu. Chết người là chổ đó. Người ta đốt mình cũng đốt… Nô lệ là chỗ đó. – Và Trung lắc đầu – Rầu thiệt là rầu!
Tiếng súng lạch tạch dưới núi. Có tiếng đại bác dội về. Lòng Trực còn man mác những lời phân tích của bạn anh. Chùa và núi yên ắng như một cõi đâu. Cái yên ắng vô duyên giữa mùa chinh chiến, nhưng đôi lúc, cũng ấm lòng chi lạ. Mùi nhang thoang thoảng trong trăng. Lại còn cả tiếng suối. Tất cả đều mềm, đều mài mại thủa thanh bình nào đó. Cho tôi thoáng cảm mùi nhang Cung đàn xa vắng một lần rồi thôi11 , câu thơ rơi rụng Trực lượm được giữa Trường Sơn máu lửa. “Gã thi nhân nước Việt ngoài ấy tội nghiệp đến như vậy sao! Mà do đâu?” Và Trực ngủ chẳng được. Anh lững thững đi xuống chùa dưới. Khi đến gần, anh thấy một cô gái áo lụa vàng, hoặc giả là lụa ngà nhuộm ánh trăng, đang thơ thẩn trong sân trước, thỉnh thoảng lại cúi xuống ngửi hoa bụi này, vơ vẩn bụi kia.
– Hoa dạ lý đêm nay thơm thanh hơn đêm qua.
– Cô là ni cô?
– Em ở dưới làng lên đây tính vào chùa đọc thơ cổ đêm trăng, nhưng hương hoa chưa thả em ra.
– Trời đất!
– Anh nói sao?
– Không có chi; tôi chỉ cảm ơn Trời Phật.
– Nam mô A di đà Phật!
Và nàng bật cười ngọc vỡ, làm những con hạc vàng trên tà áo lụa vỗ cánh chực bay. Trực ngu ngơ:
– Hèn chi cái ông sư Phạm Thiên Thư, trang kinh ông cứ ăm ắp dáng Kiều thơm.
– Anh đọc vài câu nghe thử!
– Mười con hạc trắng về tha Như Lai thường trụ trên tà áo xuân Vai nghiêng suối tóc tơ huyền Ðôi gò đào nở trên miền tuyết thơm.
– Thí chủ nghĩ sai rồi. Thầy Thiên Thư muốn nói về cái bất nhị…
Trực khi không gằn giọng Quan Công Mặt Ðỏ:
– Cô nói gì? Cô nói gì? Cái bọn ởm ờ cả lũ!
Nói xong Trực cúi đầu, như xấu hổ vì tức giận vô duyên.
Và khi ngước lên, chẳng còn thấy cô gái đâu.
Trực nghe có tiếng gì như tiếng chim đập cánh hốt hoảng mái tây chùa.
Tối hôm sau, trăng mười sáu, giữa khuya anh lại xuống chùa. Anh mừng rỡ thấy cô gái hôm qua đã đứng đó, dường như cô đang mằn mò đọc các câu đối nơi các cột chùa. Anh chưa dám hỏi han gì. Cũng thử đọc đỡ đôi câu cho đỡ ngượng. Câu nào cũng vương ít nhiều Thiền vị như:
Ðạo bản vô nhan sắc,
Tân tiên nhật nhật khoa6:
Ðạo vốn không màu sắc,
Ngày phơi vẽ mới tươi.
Thân như điện ảnh hữu hoàn vô…
Thịnh suy như lộ thảo đầu phô7.
Thân như bóng chớp, có thời không…
Kìa kìa ngọn cỏ giọt sương đông.
Nhưng cô Hoàng Hạc bỗng khựng lại:
– Trời đất, ai đã viết câu thơ thoáng nghe nhẹ như sợi trăng, mà lại bùng bùng sấm sét? – Và cô đưa tay chỉ vào hai cột lim có khắc câu “Ðê đầu vạn quyển quy hương lý Quán diệp Phật kinh nguyệt cô tâm8”
– Xin cắt nghĩa cho nghe!
– Ðể tôi thử dịch. Coi nào…Cúi đầu vạn… quyển về quê cũ. Xỏ lá… kinh Phật trăng cô tâm. Trời… đất!
-Vậy sao!? Vậy sao!? Nghe cô dịch Nôm xong, tôi mới nhận ra cái thâm ý của câu thơ, và hiểu ra tại sao ai đó lại cho khắc câu đối ngay chổ hai cột này. Vì từ trong hành lang nhìn ra, nếu để ý, cô sẽ thấy, hai câu thơ như nhìn thẳng ra bốn mảng phù điêu tròn to như cái nong có khắc chữ Phạn sơn son, gắn nơi bức tường chắn mảng núi. Lúc nãy tôi đã tò mò thử đọc, vì tôi khi học môn Phật học ở đại học Vạn Hạnh, có học chút ít tiếng Pali. Thử đọc, nhưng tôi chẳng hiểu gì. Tuy nhiên khi nhìn kỹ bốn bức đại tự chữ Pali đó, tôi thấy lối bố trí chữ mài mại hình bốn vị sư đang chăm chú đọc sách, mỗi vị quay về mỗi hướng khác nhau. Và cô xem: bức tường sát ngay mảng núi, nên giây gì như giây bìm bìm đang rủ xuống, như đang xỏ lá qua những lời kinh Phật nguyên ngữ Pali. Xỏ lá kinh Phật, hay kinh Phật xỏ lá, nếu chỉ nhích một chút vị trí của từ ngữ? Ai đó thật thâm, thật táo bạo!
– Thì táo bạo cũng giống như truyện thầy tăng xưa chẻ tượng Phật chụm bếp là cùng… Người đời xưa tâm trí cao minh.
– Còn người đời nay?
– Người đời nay chủm chọe ghê hồn.
– Tại sao lại chủm choẹ ghê hồn?
– Vì có biết bao thằng cuội thời đại đang xé nát vầng trăng? Vầng trăng sắp vỡ đến nơi.
– Cuội nào? Cuội nào? – Trực thét lên như những lần xung trận Trường Sơn.
Hạc vàng sợ quá, lại bay.
Tượng Phật nằm trên một triền đồi thoai thoải, gần chùa trên. Vành tai tượng to đến độ, người lớn có thể nằm lọt vào đó được. Ðể có được một bức tượng vĩ đại như thế trên núi cao ngàn mét, các thiện nam tín nữ cúng tiền đã đành, họ còn tình nguyện vác từng bao xi măng, gánh từng thúng cát, bó sắt lên núi cao. Cát họ gánh nhiều đến nỗi, sau khi đúc tượng xong, còn dư cả một đống lớn tựa ngọn đồi, cạnh tượng Phật. Tấm lòng mộ đạo của họ quả là bao la. Ngoài cái vĩ đại của tượng, người ta còn thấy cái tài hoa của điêu khắc gia nào đó, qua thần thái của tượng: dáng nằm an bình, đôi mắt trầm lắng, đôi tai thỏng tự tại, và đôi môi viên mãn nụ cười, bàn tay mềm mại bao dung. Về giá trị nghệ thuật, tượng không thua bất cứ tượng Phật danh tiếng nào trên thế giới mà Trực đã có viếng trong các cuộc du lịch hoặc khảo cứu, trong hai thập niên ở nước ngoài.
Hai mươi năm sau. Sợ về, nhưng cũng phải về, vì anh phải đi công tác lo chuyện hồi hương cho dân tị nạn Việt Nam bị trả từ Hồng Kông, với các nhân viên tị nạn Liên Hiệp Quốc khác. Rồi Trực cũng kiếm cách xin nghỉ được một tuần về thăm nhà, thăm chùa. Thăm làng xóm, lòng chỉ thêm ngậm ngùi. Và cũng phải đi thăm chùa một chuyến. Dù biết đi chỉ thêm đau.
Trực lựa ngày rằm13. Cảnh vẫn còn như cũ. Nhưng chùa lại quét vôi xanh đỏ loè loẹt khó coi.
Anh ở lại đêm. Trăng vẫn sáng như trăng cũ hai mươi năm. Bồi hồi khôn tả. Tưởng như phút linh cầu đang rạng. Anh cố đọc mấy câu thơ cổ cho đỡ bồn chồn.
– Ông là ai mà đêm hôm khuya khoắt?
– Tôi là người từ xa lên vãn cảnh chùa.
– Dễ chừng đã hai mươi năm – Vừa nói, người nữ cởi chiếc áo màu lam ra, thả xuống đất, phô áo lụa lung linh cổ nguyệt.
– Hoàng Hạc?
– Mỗi tháng cứ độ trăng rằm em vẫn mặc chiếc áo lụa cũ, lên đây nhớ anh… mà, anh ơi… em đã có con với anh!
– Cô nói sao!? Cô mơ hay tỉnh!?
– Sau này, em đã bị bọn phỉnh phờ, khốn nạn hiếp dâm, và đã có thai. Nhưng anh ơi, em đã yêu anh đêm đó, yêu những tiếng giận dữ dưới trăng, yêu Ðặng Dung vung kiếm nguyệt xưa. Anh giận dữ hay núi sông giận dữ? Ôm bào thai vô tội, ôm cả nghĩa non sông. Nhưng, anh Trực ơi, thằng nhỏ em sinh ra sao nó còi nó cọc, dù em cố gắng nuôi con bằng sữa lành, gạo tốt; đã thế học hành chẳng chịu, nó chỉ thích lông bông chơi trò bị gậy? Áo em may cho nó không chịu mặc mà cứ xé tươm, đòi áo giấy cho được mới chịu mặc, và nhất định cho đó là áo sang nhất. Chỉ có mấy con Miên, con Thổ khen là đẹp, vậy mà nó khoái lắm… Mấy đứa nhỏ láng giếng như con anh Ðài chị Loan, con anh Ðại chị Hàn, con ông bà Ba Tân Gia, ấy là chưa kể con ông Thái Lan cổ lổ xỉ, xưa con nhà nghèo hèn, bây giờ đứa nào cũng nên danh nên phận, giàu có hơn người. Nó không biết xấu hổ, mà còn cứ vênh váo khoe khoang. Sao nó lại như thế! Phải chăng cái ô trọc của kẻ hãm hiếp đã trấn át tất cả Trung, Trinh?
Rồi nàng úp mặt khóc:
– Anh ơi, sao anh đã bỏ em mà đi, tuyệt giòng nghĩa khí?
Có tiếng kẻng của đồn công an biên phòng dưới chân núi vang động, hoàng hạc lại vỗ cánh bay đi. Bay về hướng tượng Phật nằm.
Tối hôm sau, Trực lại lên chùa, nhưng chẳng thấy Hoàng Hạc đâu. Anh ngầy ngật lê bước về phía tượng Phật nằm. Chẳng biết tại sao. Nhưng anh vẫn còn đủ tỉnh táo để thấy tượng Phật người ta đã sơn phết loè loẹt; ai đó còn chấm cả một cái nút ruồi kiểu Marilyn Monroe17 vào bên má trái; rồi còn sơn đỏ móng chân, móng tay tượng; tượng Phật giống như – xin lỗi – một anh đồng tính luyến ái nằm trơ trẻn trong các bụi cây ở trong Central Park ở New York. Ban đêm mà còn như thế, ban ngày chắc còn thấy kinh hoàng hơn.
Trực cứ đi vòng vòng bức tượng như một gã thất tình. Cứ tức, cứ tiếc cho bức tượng mà anh đã từng khoe mỗi khi nói chuyện với các giáo sư của anh về nghệ thuật Phật giáo Việt Nam. Rồi anh bỗng thấy phía đằng lưng của tượng một cánh cửa nhỏ giấu sau một bụi cây che rậm. Anh dùng dao đa năng ngoáy đại vào ổ khóa. Cửa mở. Trong bụng tượng Phật thăm thẳm, anh thấy một vùng ánh sáng lờ mờ. Bấm đèn pin, rọi, anh thấy xác một cô gái trẻ da thịt muột mà, trần truồng treo tòng teng nơi một mấu sắt bê tông, người oằn chữ S. Sợi thừng thiệt lớn, và chắc như dây dừa Tam Quan. Trực vất vả kiếm cách và cuối cùng cũng hạ xác cô gái xuống được. Khi cầm sợi dây treo cổ, anh thấy lạ vì đây không phải là dây dừa bình thường, mà lạ một loại dây thừng bện lại bằng giấy, tuy mềm mà dai như da trâu thuộc. Anh lấy dao tỉa ra từng khúc, rồi vuốt ra từng tờ, và tò mò xem thử. Hoá ra đó là những tờ giấy mới có, cũ có, từ chuyện sấm ngôn soán đoạt thủa xưa, cho tới chuyện treo cờ treo quạt, tuyên ngôn, yêu sách đời nay; và tờ mới nhất, loại giấy đánh Fax mới toanh, kể lể trách rằng ai đã phụ ai. Và bây giờ Trực mới để ý thấy chiếc áo lụa vàng, có lẽ của người chết, bị ai quăng nằm trong một góc, sáng hiu hắt niềm riêng, làm anh nhớ câu thơ cũ: Quán diệp Phật kinh nguyệt cô tâm: Xỏ lá kinh Phật trăng cô tâm. Và anh lẩm bẩm: “Phải chăng người xưa nào đó có lúc giận quá, mất khôn? Mà giận điều gì? Hay đây là quỉ thi mời gọi điều chi?”
Oslo, Tết dương lịch 2002
(1) Câu văn La tinh không rõ của ai mà W. B. Yeats, nhà thơ, nhà văn Ái Nhĩ Lan, (1865 – 1939), dùng trong truyện ngắn The Tables of Law: Những Tấm Bia Luật; truyện gợi hứng cho tôi viết truyện ngắn này.
(2) Krishnamurti… trích dịch từ cuốn Beyond Violence, nxb Victor Golanz LTD, London, 1983, trang 74. / Jiddi Krishnamurti (1895 -1986), sinh ra ở Ấn độ; được hai vị lãnh đạo phái Thông thiên học (Theosophical Society) khám phá ở Ấn, và được nuôi dạy ở Anh bởi chính hai vị này, và hai vị đã tôn K. như Thầy của Thế giới (the World Teacher) ; vào tuổi thanh niên ông trải qua những kinh nghiệm thần bí làm biến đổi hẳn tâm tư ông; ly khai khỏi mọi tôn giáo, ý thức hệ, kể cả phái Thông thiên học; và chân cứng đá mềm với trách nhiệm cô đơn mà ông tự đặt cho mình; là một minh sư, một triết gia, một nhà tư tưởng, một người bạn, hoặc là chẳng là gì cả như ông đã tự đánh giá mình, ông đã soi sáng cuộc đời hàng triệu người trên thế giới – trí thức, dân dã, già, trẻ. Ông đã mang lại ý nghĩa mới, nội dung mới cho đời họ bằng cách chỉ ra một lối sống vượt trên mọi tôn giáo cơ cấu. Ông cũng táo bạo đương đầu với những vấn đề thời đại, và phân tích, một cách chính xác khoa học, sự vận hành của tâm trí con người. Khi ông tuyên bố rằng quan tâm duy nhất của ông là làm cho con người được tự do tuyệt đối, vô điều kiện, ấy là ông muốn tìm cách giải phóng con người thoát ra khỏi mọi dạng điều kiện hoá nằm sâu trong con người, và bó buộc, và làm khổ con người; đó là sự buồn phiền, sự sợ hãi, bạo lực, và sự ích kỷ. Ðể được như thế, con người cần giải trừ những kiến thức (freedom from the known) mà mình tự, hoặc bị gắn vào bởi các loại tôn giáo, các ý thức hệ, các trào lưu tư tưởng, và nhìn thẳng, nhìn tươi mát vào cái hiện tồn của mình (what is) . Các tác phẩm quan trọng, theo NVT: The first and last Freedom (Tự do đầu tiên và cuối cùng, Phạm Công Thiện dịch) , Commentaries on Living, ba tập (Bàn về Hiện sinh, Trúc thiên dịch) .
(3) Trí nhớ màu xanh… xin xem thí dụ của Rey trong mục Category mistake, The Cambridge Dictionary of Philosophy.
(4) I can not take sides: Ý này dựa vào bài thơ Please Call Me by My True Name (lộng dịch: Hãy vạch mặt chỉ tên tôi. ) của Thích Nhất Hạnh. Ðại ý: Trong cặp tương phản: Tên hải tặc Thái Lan & đứa bé gái 12 tuổi bị hiếp và sau đó ném xuống biển, ông chỉ giận, chứ không chống lại tên hải tặc đó, và đồng thời ông cũng không đứng về phía cô gái bị nạn. Thái độ của ông cũng tương tự như thế với với cặp mâu thuẩn khác: ủy viên trung ương đảng & thành phần có nợ máu bị đi khổ sai cải tạo…
(5) Ba sự kiện quan trọng được quyết định trong đại hội: cờ Phật giáo, ngày Phật đản, Phật lịch. / Lá cờ ngũ sắc có ý tượng trưng cho ngũ căn: tín, tinh tấn, thiền định, chánh niệm, định huệ, và cũng tượng trưng cho ngũ lực tương ứng với ngũ căn; rồi cờ còn biểu trưng cho cái ý ‘ngũ châu nhân chủng’ ; và cũng biểu tượng cho cái ý thánh nhân cũng từ trong cõi Ta Bà, tạp thú ngũ cư mà ra.
(6) Ðạo bản…Thơ Phạm Thường Chiếu/ Ðào Phương Bình, Nguyễn Ðức Vân dịch.
(7) Thân như…Thơ Nguyễn Vạn Hạnh/ Ngô Tất Tố dịch.
(8) Quán diệp… và câu Nhị thập niên… thơ Mạt Tỉnh/ Nguyễn Văn Thà dịch.
(9) Tự thiêu : Xin xem cuốn Chinese Religions của Julia Ching, nxb MacMillan 1993, mục Buddhism and suicide : Phật giáo và vấn đề tự sát, trang 148; có nêu đích danh trường hợp tự thiêu của Thích Quảng Ðức để minh hoạ. Bà đã có những công trình lớn về Tôn giáo Trung Hoa, giáo sư môn Tôn giáo học ở các đại học tăm tiếng nhất trên thế giới. / Hỡi các tì kheo… trích từ bản dịch kinh Milindapanha (Na tiên tì keo kinh) trang 437, bản dịch của Warren, trích từ tác phẩm Chinese Religions kể trên.
(10) Hàn Dũ: (768 – 823) , người đời Ðường, đậu tiến sĩ năm 25 tuổi, được phong tước Xương Lê bá, giữ các chức vụ phải sử dụ lý trí phân tích nhiều: giám sát ngự sử, giám sát sử quán tu soạn, hình bộ thị lang. Ngoài bài biểu kể trên, còn có bài Nguyên Ðạo, và Nguyên Tính rất sâu sắc, hùng hồn. Ðem thực học mà tu sửa cái học hư văn của người đương thời. Văn đơn giản, mạnh mẽ. Sau bài biểu can gián bài xích đạo Phật, bị giáng xuống chức thứ sử và bị đày ở Triều Châu (Quảng Ðông). Sau làm văn tế đuổi được sấu dữ trong vùng, được gọi trở về lại triều – (Theo Dương Quảng Hàm). Cuối đời theo đạo Phật (mà ông đã đả phá những lề thói kể trên) , nên có câu: Học đáo Xương Lê chung ngộ đạo… Học cỡ Xương lê cuối cùng thấy Ðạo.
(11) Cho tôi thoáng cảm… Thơ Hồ Dzếnh, làm sau mấy chục năm tan nát dưới chế độ Cộng sản miền Bắc.
(12) Kinh Diệu Pháp Liên Hoa: Một bổn kinh to tát trong đạo Phật, do ngài Cưu ma la Thập dịch từ bản chữ Phạn ra chữ Hán khoảng năm 400 Tây lịch. Kinh này là bộ kinh căn bản của tông phái Thiên thai và tông phái Pháp hoa, Bắc tông, (theo Phật học Từ Ðiển của Ðoàn Trung Còn) . Kinh này cũng như các kinh khác của Phật giáo Trung Hoa, xét về nguồn gốc và tác giả, trộm nghĩ vẫn còn là vấn đề cần cẩn trọng nghiên cứu, đánh giá lại. Lý do là, theo học giả Julia Ching, vì nhu cầu quá lớn về kinh của người Trung Hoa, đã sinh ra lắm kẻ tự xưng là đệ tử chính truyền của Thích ca; họ đã bịa bậy các loại kinh để cho có kinh mà bán cho người đi thỉnh, hiện tượng này Julia Ching gọi là sutra industry : chợ kinh ( Về chợ kinh xin xem Julia Ching, Chinese Religions, 1993, nxb the Macmillan Press LTD, cuối tr. 129 – 130. / Về vấn đề văn bản của kinh Phật xin xem thêm Donald S. Lopez, Jr., 2000, nxb The story of Buddhism…, nxb HarperSanFracisco, tr 67 – 72, và 109 – 117)
(14) Vầng trăng tròn: trăng viên mãn và các từ mài mại như thế, hay được dùng trong thơ Thiền và trong đạo hiệu để chỉ sự chứng ngộ. Như trong câu: Thúy trúc huỳnh hoa phi ngoại cảnh. Bạch vân minh nguyệt lộ toàn chân. (Thiền Lão thiền sư, đời Lý).
(15) Sấm ngôn soán đoạt: Về nghi vấn lịch sử về chuyện sư Nguyễn Vạn Hạnh tự thả thơ rơi, rồi phao đó là lời sấm báo nhà Tiền Lê, với ông vua đang trị vì Lê Long Ðĩnh, đã đến thời mạt vận, trong âm mưu hạ Lê Long Ðĩnh và đưa Lý Công Uẩn, đệ tử nhà chùa của sư Nguyễn Vạn Hạnh lên làm vua, xin xem mục Nguyễn Vạn Hạnh trong bộ Thơ Văn Lý Trần, nhà xuất bản KHXH, Hà nội / Riêng nghi vấn âm mưu diệt Lê Long Ðĩnh, xin xem bài “Bệnh Án của Ngọa Triều Hoàng Ðế” của BS Hồ Ðắc Duy, trong điện báo Chim Việt Cành Nam, địa chỉ http://www.phapviet.com/chimviet . Ðại ý: Vua Lê Long Ðĩnh tuy có giết anh chiếm ngôi (có một vị vua trước và một vua sau Lê Long Ðĩnh cũng làm như vậy) , nhưng vua Lê Long Ðĩnh là người biết chăm lo cho dân, cai trị giỏi, cho người qua Tàu xin Tứ thư, Ngũ Kinh và thỉnh kinh Phật Ðại Tạng, và là một vua đã đi chinh phạt 5 lần và lần chinh phạt cuối cùng là 2 tháng trước khi chết. Vậy những cái xấu xa mà xưa nay người ta gán cho vua Lê Long Ðĩnh là do đâu, và có đúng không, và cái chết của ông là do một âm mưu? Bài viết có giá trị vì tác giả đã trưng dẫn và đối chiếu nhiều sử liệu cổ. / Mấy trăm năm thanh bình với Phật giáo là quốc giáo dưới triều Lý cách đây đã ngàn năm vẫn là mẫu quốc gia lý tưởng cho một số trí thức Phật giáo trong cuộc chiến tranh Việt Nam và cả đến hôm nay, thế kỷ 21!
(16) Tông miếu: đền thờ tổ tiên, chỉ tổ tiên. Xã Tắc: Xã là thần mặt đất, và sản phẩm của thần Xã là thần Tắc (thần hạt), vậy Xã tắc chỉ Ðất nước.
(17) Marilyn Moroe: (1926 – 1960) nữ diễn viên điện ảnh của Mỹ, nổi tiếng với sắc đẹp sexy, tóc vàng, và cái nút ruồi duyên nằm dưới phía trái môi dưới.